Content uploaded by Chi Linh Nguyen
Author content
All content in this area was uploaded by Chi Linh Nguyen on Jan 31, 2022
Content may be subject to copyright.
TƯỞNG TƯỢNG
Số 43 - tháng 1 | 2022
GIÁO DỤC VÀ SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG GIÁO DỤC VÀ SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG
TRONG NĂM 2021: LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRONG NĂM 2021: LÀM THẾ NÀO ĐỂ
THAY ĐỔI HỆ THỐNG?THAY ĐỔI HỆ THỐNG?
NĂM CÁCH ĐỂ HỌC SINH CHÚ Ý VÀO
KIẾN THỨC THAY VÌ ĐIỂM SỐ COVID-19 ĐANG THÚC ĐẨY COVID-19 ĐANG THÚC ĐẨY
CÁC CẢI CÁCH GIÁO DỤCCÁC CẢI CÁCH GIÁO DỤC
MƯỜI NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC CÓ MƯỜI NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC CÓ
Ý NGHĨA NHẤT NĂM 2021Ý NGHĨA NHẤT NĂM 2021
Số 43: Tưởng tượng
Dạy thế nào
DẠY TRẺ CÁCH YÊU KHOA HỌC............................ 06
Duy Vũ dịch
SỬ DỤNG HOẠT ĐỘNG VẼ
TRONG ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH ............................. 11
LISA dịch
NĂM CÁCH ĐỂ HỌC SINH CHÚ Ý VÀO KIÉN THỨC
THAY VÌ ĐIỂM SỐ .....................................................14
Duy Vũ dịch
2Nội san Dạy học | Day-hoc.org Số 42 - 2021
Quản lí giáo dục
HỖ TRỢ HỌC SINH KHI TRƯỜNG HỌC
MỞ CỬA LẠI .............................................................17
LISA dịch
COVID-19 ĐANG THÚC ĐẨY
CÁC CẢI CÁCH GIÁO DỤC ......................................21
MinhTrang lược dịch
BẤT BÌNH ĐẲNG GIÁO DỤC THEO KHU VỰC ĐỊA LÝ
Ở ANH QUỐC GIA TĂNG MẠNH SAU 30 NĂM .......25
Ngô Thị Thanh Tùng dịch
GIÁO DỤC VÀ SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG NĂM
2021: LÀM THẾ NÀO ĐỂ THAY ĐỔI HỆ THỐNG? . . 28
Vũ Như dịch
MƯỜI NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC CÓ Ý NGHĨA
NHẤT NĂM 2021 ...................................................... 31
LISA dịch
3
Nội san Dạy học | Day-hoc.orgSố 42 - 2021
Thể lệ gửi bài:
Quý thầy cô, anh chị có nội dung liên quan tới Dạy và
Học muốn chia sẻ tới cộng đồng, xin vui lòng gửi về Ban
Biên tập Lộn xộn qua email bientap@day-hoc.org
Cuối bài viết, tác giả xin vui lòng giới thiệu vài nét về bản
thân: Họ tên, nơi công tác, địa chỉ liên lạc, số điện thoại,
các chủ đề nghiên cứu yêu thích…
Do thời gian và nhân sự có hạn, Ban Biên tập xin phép
chỉ liên hệ với các bài viết được chọn đăng.
Tinh thần 4.0
Ban Biên tập và quý thầy cô, anh chị gửi bài cộng tác
đều chia sẻ tinh thần 4.0, tức là:
- 0 lương
- 0 văn phòng
- 0 chuyên môn cao
- 0 giới hạn không gian - thời gian
Địa chỉ gửi bài:
Bientap@day-hoc.org
Chia sẻ:
Quý thầy cô, anh chị cảm thấy nội dung Dạy và Học có
ích, xin vui lòng chia sẻ tới bất kỳ những ai quan tâm,
kèm theo trích dẫn nguyên vẹn và đầy đủ về nguồn gốc
bài viết.
Mọi người nói về Dạy & Học
“Dạy&Học giống như một nguồn dinh dưỡng
quý báu cho những ai quan tâm tới giáo dục,
bất kể trong bối cảnh gia đình, nhà trường,
hay xã hội.”
- Th.S Ngô Huy Tâm
4Nội san Dạy học | Day-hoc.org Số 42 - 2021
Lời tựa
Quý độc giả thân mến,
“COVID-19 đang thúc đẩy các cải cách giáo dục” là một tựa đề nằm trong Dạy&Học số 43 lần
này. Không chỉ là vì cuộc chiến với virus còn gian nan và thế giới khó có thể quay về thời kì trước khi
đại dịch diễn ra, mà còn bởi vì chúng ta hiểu được rằng một hệ thống có vấn đề chính là một trong
những yếu tố kéo dài đại dịch, thậm chí là yếu tố kích thích những họa nạn tương tự trong tương lai.
“Tất cả mọi thay đổi bền vững và có ý nghĩa đều bắt đầu từ trí tưởng tượng của bạn” - mượn câu
nói nổi tiếng được cho là của nhà vật lý lý thuyết Albert Einstein, BBT Lộn Xộn xin gửi tới quý độc
giả số cuối cùng của năm Tân Sửu với tựa đề “Tưởng tượng”.
Mở đầu chuyên mục Dạy thế nào là “Dạy trẻ cách yêu khoa học”, lời tâm sự của một nhà giáo
kỳ cựu về cách cô sử dụng học tập dựa trên dự án để thúc đẩy lòng yêu thích khoa học ở những
học sinh của mình. Hai bài viết tiếp theo của chuyên mục này với tựa đề lần lượt là “Sử dụng hoạt
động vẽ trong đánh giá quá trình”, “Năm cách để học sinh chú ý vào kiến thức thay vì điểm
số” hướng tới việc chuẩn bị cho học sinh tưởng tượng về một viễn cảnh mới mà ở đó các bài kiểm
tra truyền thống không còn là thứ độc tôn quyết định thành tích học tập của chúng.
Với kế hoạch mở cửa lại trường học sau kỳ nghỉ Tết, “Hỗ trợ học sinh khi trường học mở cửa
lại” gợi ý một số việc giáo viên có thể làm để cuộc chuyển giao này bớt khó khăn. Cuộc tấn công
của virus corona đã làm lộ ra vô số những yếu điểm của các hệ thống giáo dục trên toàn thế giới,
trong đó đáng chú ý nhất là tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng ở nhiều khu vực. “Bất bình đẳng
giáo dục về khu vực địa lý ở Anh quốc gia tăng mạnh sau 30 năm” là một trong hàng ngàn báo
cáo về tính đáng báo động của tình trạng này. Cùng với “Covid-19 đang thúc đẩy các cải cách
giáo dục”, bài viết “Giáo dục và sự bất bình đẳng trong năm 2021: Làm thế nào để thay đổi hệ
thống?” là một bàn luận đi xa hơn những báo cáo trên khi dám tưởng tượng tới một tương lai giảm
thiếu được những khoảng cách đó. Cuối cùng, “Mười nghiên cứu giáo dục có ý nghĩa nhất năm
2021” là một tóm tắt ngắn gọn những kết quả đáng chú ý về giáo dục 2021 từ góc độ khoa học.
Xin chúc Quý vị có những khoảng thời gian thú vị.
Trân trọng,
Ban Biên tập Lộn Xộn
5
Nội san Dạy học | Day-hoc.orgSố 42 - 2021
Kristina Rizga1 | Duy Vũ dịch
Cô Deborah Cornelison rất vui mừng khi thấy xã
hội Hoa Kỳ đã đặt giáo dục khoa học lên một vị
trí cao hơn. Trong thập kỷ trước, các quan chức
chính phủ, các lãnh đạo doanh nghiệp và những
nhà giáo đã tranh luận về việc đào tạo khoa học,
công nghệ, kỹ thuật và toán có nên trở thành ưu
tiên của quốc gia hay không - bởi vì nó giúp học
sinh tăng cơ hội việc làm ở những tập đoàn lớn
trên thế giới như Google hoặc Tesla và có thể gia
nhập vào nền kinh tế thế giới. Nhưng cô Cornel-
ison nói với tôi, việc đề cập đến cạnh tranh kinh
tế toàn cầu thường không được hưởng ứng lắm
ở những vùng nông thôn, chẳng hạn như ở quê
nhà của cô, hạt Ada, Oklahoma. Một số học sinh
ở vùng quê không muốn rời khỏi thị trấn nhỏ của
1 Nguồn:https://www.theatlantic.com/education/
archive/2020/09/teaching-how-teach-high-school-sci-
ence/616186/
mình, nơi mà họ luôn có cảm giác quen thuộc và
lòng tự hào sâu sắc.
Cô Cornelson, một cựu giáo viên môn khoa
học đã có 26 năm giảng dạy tại một trường cấp
3 trước khi chuyển tới làm việc tại Sở Giáo dục
Oklahoma, đã thiết kế các giờ học của cô theo
cách có thể giúp các học sinh không cho rằng lợi
ích đầu tiên của việc học là kiếm được một công
việc, đậu một trường đại học danh giá hay chỉ
đơn giản là chẳng có ý định theo đuổi sự nghiệp
khoa học tham gia tích cực hơn vào bài học. Khi
tôi dành một tuần với Cornelson vào tháng 3 năm
2018, cô đã giải thích cách cô cho học sinh của
mình thấy được sự hấp dẫn của khoa học, trong
đó có phương pháp sử dụng các dự án khoa học
để cải thiện cuộc sống xung quanh các em.
6Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
DẠY TRẺ CÁCH YÊU KHOA HỌC
Bản ghi lại cuộc phỏng vấn dưới đây đã được tinh
chỉnh cho ngắn gọn và rõ ràng hơn.
Kristina Rizga: Cô đã được nhận những giải
thưởng cấp quốc gia về giảng dạy, đặc biệt với
phương pháp học tập qua dự án (project-based
learning). Cô có thể mô tả cách nó được ứng
dụng trong lớp học không
Deborah Cornelison: Tất cả các dự án do học
sinh của tôi thực hiện - cho dù là dự nhóm hay
dự án cá nhân - luôn đặt trọng tâm vào việc xác
định các vấn đề thực xảy ra trong cộng đồng của
các em, chúng sẽ tự mình tập hợp dữ liệu cần
thiết, tiến hành thí nghiệm, khảo sát, sau đó tìm
kiếm giải pháp. Cách giảng dạy của tôi đã thay
đổi rất nhiều kể từ khi tôi bắt đầu công việc vào
năm 1988. Tôi luôn muốn những buổi thực hành
trong lớp tiến xa hơn việc chỉ thí nghiệm theo
hướng dẫn, khi mà học sinh được yêu cầu phải
tuân theo những chỉ dẫn vốn đã ghi sẵn cần phải
làm những gì và cần phải chứng minh điều gì
trong sách giáo khoa. Tôi muốn các em học được
những kỹ năng có thể giúp chúng thành công
hơn trong công việc và cuộc sống tương lai, như
là tìm tòi, khám phá, hợp tác giải để quyết vấn đề
và tư duy phản biện,.
Tôi sẽ lấy ví dụ về một dự án đo nồng độ CO2 trong
các lớp học của một nhóm học sinh lớp 9 trường
THCS Byung. Đầu tiên, các em đã thực hiện việc
đo đạc trong hầu hết các lớp học của tòa nhà, và
tìm ra rằng nồng độ CO2 ở một số nơi cao hơn
rất nhiều so với nồng độ tiêu chuẩn - đặc biệt
ở các lớp học đông học sinh sau bữa trưa. Các
em đã phân tích bản thiết kế của tòa nhà và thảo
luận về kết quả cuộc điều tra với người phụ trách
việc bảo trì hệ thống sưởi, thông gió và điều hòa
không khí của tòa nhà. Cùng nhau, họ đưa ra kết
luận sơ bộ rằng nồng độ CO2 có thể phụ thuộc
vào lượng không khí sạch được đưa vào phòng
học. Vì việc sưởi hay làm lạnh không khí mới liên
tục sẽ tiêu tốn nhiều chi phí và điện năng, nên
đôi khi hệ thống tự động điều chỉnh xuống chế
độ tiết kiệm, khiến cho không khí không được
làm mới và tuần hoàn. Nhận ra vấn đề đó, lượng
không khí sạch sau đó đã được đưa vào lớp học
nhiều hơn để cải thiện chất lượng không khí, và
kết quả kiểm tra nồng độ CO2 sau đó đã đạt mức
khuyến nghị.
Một dự án về các loại thực phẩm tốt cho sức
khỏe của một nhóm học sinh khác đã “lập công”
đưa quầy salad trở lại căng-tin. Các em bắt đầu
bằng việc khảo sát lựa chọn bữa trưa và nhu cầu
thay đổi (nếu có) của các học sinh. Nhóm phỏng
vấn nhân viên căng-tin để có thêm những bằng
chứng xác thực. Bên cạnh đó, các em cũng tham
khảo ý kiến từ các chuyên gia, phân tích dữ liệu,
và soạn một bài thuyết trình về các thói quen ăn
uống tốt cho sức khỏe - sau đó được dùng để
“dạy” lại cho các bạn khác. Khâu cuối cùng là
trình bày kết quả nghiên cứu của mình cho quản
lý nhà trường.
Một dự án khác nghiên cứu về tác hại của việc
thiếu ngủ trên n thiếu niên. Nhóm học sinh thực
hiện dự án đã thu thập nhật ký giấc ngủ trong
hai tuần của tất cả các bạn cùng lớp. Cùng lúc,
các em tìm hiểu về tầm quan trọng của việc ngủ
đủ giấc và các thói quen giúp cải thiện giấc ngủ,
như là thức dậy vào một giờ cố định mỗi ngày,
hạn chế sử dụng thiết bị điện tử trước khi ngủ, và
tăng cường tập thể dục. Từ số liệu thu thập được,
các em làm một bài thuyết trình trước Hội đồng
nhà trường, sau đó sử dụng chúng làm công cụ
tuyên truyền về tầm quan trọng của việc ngủ đủ
giấc. Kết quả thu được rất tích cực khi trong khảo
sát sau nghiên cứu, 90% học sinh toàn trường
khẳng định thói quen ngủ nghỉ của mình đã được
cải thiện.
Đôi khi, các dự án của học sinh còn có thể thay
đổi chính sách của cả một tiểu bang: một trong
số đó là dự án xây dựng và phát triển các phương
án ứng phó với những tình huống khẩn cấp tại
7
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
trường học (school-emergency plans), như buổi
diễn tập phong tỏa trường hằng năm (yearly
lockdown drills). Tiểu bang đã dựa vào kết quả
nghiên cứu này để nhân rộng việc thực hiện các
phương án tương tự trên tại tất cả các trường
học vào năm 2007.
Rizga: Ý định của cô là tận dụng các lớp khoa học
để truyền tải thông điệp về sự tham gia của công
dân phải không?
Cornelison: Tôi luôn muốn tìm ra những phương
pháp để học sinh thấy khoa học có thể giúp
chúng ta giải quyết các vấn đề toàn cầu ở cấp độ
địa phương như thế nào, và cho phép học sinh có
thể trải nghiệm cảm giác làm chủ. Đó hẳn sẽ trở
thành một nguồn động lực lớn cho những thanh
thiếu niên trẻ tuổi.
Rizga: Cô luôn trao cho học sinh quyền tự do lựa
chọn đề tài dự án có phải em hay nhóm nào cũng
biết mình muốn nghiên cứu về chủ đề hay vấn đề
nào không?
Cornelison: Dĩ nhiên là không. Đó là lúc chúng
cần đến sự đồng hành của tôi. Tôi giúp các em
lựa chọn đề tài bằng cách khuyến khích các em
đọc thêm tin tức, đồng thời, tìm kiếm các vấn đề
chúng hứng thú tìm hiểu và khai thác. Kể từ khi
bắt đầu đi dạy, tôi đã giữ thói quen lưu lại các tập
tài liệu về nhiều chủ đề khác nhau mà học sinh
có thể sẽ hứng thú, bao gồm các bài báo hay bài
viết được cắt ra từ báo hoặc tạp chí. Bằng việc
thực hiện một vài nghiên cứu nhỏ, đọc, và thảo
luận đa dạng các đề tài, chúng tôi, sau cùng,
luôn chọn được một chủ đề ý nghĩa.
Rizga: So với cách tiếp cận truyền thống (thông
qua bài giảng và vài lần lên phòng thí nghiệm),
phương pháp này giúp các em bồi dưỡng thêm
những kỹ nào?
Cornelison: Học sinh vẫn được học về lý thuyết
và quy trình nghiên cứu. Tuy nhiên, với cách học
này, các em sẽ tích lũy thêm được cho mình
những kỹ năng khác có ích trong cuộc sống, như
làm việc nhóm, phân chia công việc, giải quyết
vấn đề, quản lý thời gian, lên kế hoạch, truyền
đạt ý tưởng cho người khác, và hợp tác với những
thành viên khác trong cộng đồng nhằm hiện
thực hóa các giải pháp tích cực đã tìm ra. Các
em cũng được học cách đối mặt với khó khăn và
sự bối rối trong việc vạch ra con đường cho chính
mình; học được cách tìm kiếm sự hỗ trợ và giúp
đỡ người khác. Ngoài ra, kỹ năng phân tích và
khả năng vận dụng linh hoạt các kỹ năng có được
của học sinh cũng được cải thiện.
Các em cũng sẽ trở thành những cây viết giỏi bởi
yêu cầu về việc giải thích cùng phân tích những gì
mình làm một cách mạch lạc và rõ ràng. Sự thật
là, đa số sự hỗ trợ và cá nhân hóa trong giảng
dạy xảy ra trong khi viết, như tôi luôn giúp học
sinh nhận ra ý nghĩa của dự án các em đang thực
hiện: Em tìm được những gì? Chúng có ý nghĩa
gì? Tại sao chúng lại quan trọng? Tôi luôn muốn
nhìn thấy quá trình tư duy của các em, đó cũng
là cách tôi xây dựng mối quan hệ với học sinh của
mình. Và gần như trở thành sự kiện hằng năm,
các em mất hàng tuần luyện tập trước khi chính
thức trình bày kết quả nghiên cứu của mình trước
bạn học hoặc trước Hội đồng trường, hoặc trong
buổi họp mặt phụ huynh hay tại các sự kiện STEM
cấp quốc gia. Việc thuyết trình thực sự giúp củng
cố nền tảng và gia tăng động lực của các em.
Tôi tin rằng, sau tất cả những khó khăn, giá trị
của các dự án nằm ở việc học sinh cảm nhận được
cảm giác làm chủ. Dữ liệu của các em. Công sức
và thành quả đều là của các em. Đó thực sự là
niềm tự hào của chúng. Hầu hết học sinh chia sẻ
với tôi rằng những dự án thế này chính là điểm
sáng, là kỷ niệm các em không bao giờ quên khi
rời THPT.
8Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
Rizga: Theo thời gian, cách dạy của cô đã thay
đổi thế nào?
Cornelison: Tôi thường bắt đầu lớp học theo cách
mà tôi trước đây được dạy: giảng lý thuyết, sau
đó thực hành. Học sinh chỉ cần làm theo hướng
dẫn để ra được các kết luận có sẵn trong sách.
Sau đó giờ học sẽ phát triển theo một vài phương
hướng khác nhau, thường là bắt đầu khi học sinh
tìm ra một thứ gì đó mới và thảo luận với nhau
về chúng. Như vậy, thay vì chỉ chú ý vào việc câu
trả lời đúng hay sai - điều quan trọng trong khoa
học, các em còn được nói lên suy nghĩ của chính
mình. Như thế có nghĩa là các em học được cách
chuyển câu trả lời từ các câu hỏi đóng hay phản
hồi nội dung quan các câu hỏi có thể khai thác
những khía cạnh sâu hơn của vấn đề như là “Cô
giảithíchkỹ hơn đượckhôngạ?”hay là “Điềuđó
thìcónghĩagì?”.
Qua thời gian, tôi cũng học được cách ưu tiên đưa
ra các nhận xét khuyến khích học trò thể hiện
suy nghĩ của mình, và giải quyết hiểu lầm của
các em về bài học. Sau khi giảng dạy cùng một
lý thuyết từ năm này qua năm khác, bạn sẽ học
được cách chủ động chỉ ra những cách hiểu sai
về bài học trước cả khi học sinh thể hiện suy nghĩ
của mình - và bạn cũng hiểu rằng đôi khi lý thuyết
cũng cần được hiểu bằng nhiều cách khác nhau
trước khi học sinh chạm tới chiều sâu tri thức. Sự
phát triển này gắn chặt với việc phát triển chuyên
môn của bản thân, bởi vì bạn càng cố gắng nâng
cao hiệu quả giảng dạy thông qua việc thực hành
giảng dạy dựa trên trên cơ sở khoa học và nhìn
ra được những dấu hiệu của sự học, bạn càng
linh hoạt hơn trong cách ứng dụng chúng vào bài
giảng của mình.
Rizga: Cách phát triển chuyên môn nào đã giúp
cô nhiều nhất?
Cornelison: Những giáo viên thường nghĩ rằng
phát triển chuyên môn là việc trường học bắt
buộc họ phải làm - nhưng với tôi, phát triển
chuyên môn là cách giúp bản thân giải quyết các
vấn đề xảy ra trong lớp học của mình. Hầu hết
đều thông qua học tập không chính thức, như
hợp tác và tự đánh giá với đồng nghiệp về các
đề tài nghiên cứu khoa học thành công và cách
chúng tôi có thể cải thiện chúng. Và gần như
mỗi năm, tôi đều tham dự hội nghị của Hiệp hội
Sư phạm Khoa học Quốc gia (National Science
Teaching Association), nơi tôi có thể học hỏi được
nhiều ý tưởng đột phá cùng các công cụ giảng
dạy mới, như phòng thí nghiệm ảo hoặc trò chơi
giúp học sinh ôn lại các khái niệm. Tôi cũng đã
nhận Chứng nhận Hội đồng Quốc gia (National
Board Certication) vào năm 1998. Kỹ năng của
tôi được cải thiện rất nhiều từ đây.
Rizga: Cô đã hợp tác với những đồng nghiệp của
mình thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất?
Cornelison: Tôi nghĩ sẽ rất hữu ích nếu giáo viên
dự khán các lớp học của nhau và thảo luận về
những gì mình quan sát được, sau đó, áp dụng
vào chính lớp học của mình. Đồng thời, hãy chú
ý vào hoạt động của học sinh: Mình có thể biết
được điều gì từ hành động của học sinh? Thái độ
của học sinh chính là thước đo sự nghiêm khắc
của giáo viên trong lớp học.
Rizga: Điều gì khiến cô gắn bó với nghề giáo suốt
26 năm qua?
Cornelison: Lớp học của tôi không phải là một
lớp luyện thi nên tôi có thể tự do thử nghiệm các
sáng kiến mới. Ở trường, chúng tôi không bao
giờ đặt quá nặng vào việc ôn thi. Nếu tôi ở trong
một ngôi trường mà bản thân bị gánh nặng luyện
thi đè nặng, sẽ cực kỳ khó cho tôi dung hòa trách
nhiệm đó với niềm tin của mình về việc giảng dạy
hiệu quả. Cách tôi làm luôn dựa vào những quy
chuẩn, và học trò của tôi sẽ luôn nhìn thấy được
cách những quy chuẩn khoa học đó được ứng
dụng trong đời sống hằng ngày của các em.
9
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
Rizga: Kinh nghiệm giảng dạy có quan trọng
không?
Cornelison: Nếu một giáo viên luôn học hỏi trong
20 năm, họ sẽ biết lượng kiến thức tích lũy trong
20 năm đó lớn hơn trong 5 năm thế nào. Một giáo
viên nhiều kinh nghiệm hơn, tôi tin rằng, sẽ có
lượng kiến thức sâu hơn và rộng hơn về lý thuyết
sư phạm và có được góc nhìn tốt hơn về những
gì hiệu quả và không hiệu quả với từng đối tượng
học sinh khác nhau. Một giáo viên lớn tuổi sẽ
già dặn hơn và có nhiều kinh nghiệm sống hơn,
bao gồm cả kinh nghiệm làm phụ huynh. Điều
này giúp họ hiểu hơn các học sinh của mình. Và
những giáo viên có thâm niên hẳn cũng sẽ có
mạng lưới đồng nghiệp rộng lớn hơn.
Rizga: Cô sẽ làm gì để giờ làm việc của mình
hiệu quả hơn?
Cornelison: Tôi dành nhiều thời gian soạn bài
giúp không chỉ bài giảng mà việc trao đổi với
đồng nghiệp cũng hiệu quả hơn. Đa số những tiết
học của chúng tôi kéo dài khoảng 45 phút, nhưng
sự hợp tác giữa những nhóm giáo viên có thể tạo
nên môi trường học liên môn và khiến tiết học
dài hơn và giảm số lớp học sinh phải tham gia
đi. Tuy vậy, thực tế là chúng tôi đã không hợp tác
nhiều.
Rizga: Những giá trị cô luôn cố gắng đưa vào lớp
học?
Cornelison: Tôi luôn cố gắng thể hiện sự chân
thật của bản thân nhiều nhất có thể. Tôi muốn
học sinh mình biết rằng tôi cũng như các em, tôi
chỉ đặc biệt hơn ở chỗ tôi được nhìn nhận dưới tư
cách người truyền thụ kiến thức. Tôi muốn các
em biết rằng tôi cũng từng phạm phải rất nhiều
sai lầm, thành công của tôi đến từ việc học hỏi từ
những người xung quanh và sự giúp đỡ của mọi
người. Tôi muốn học sinh của mình biết rằng tôi
luôn cổ vũ các em khám phá dựa trên sở thích
và mối quan tâm của chính chúng. Tôi đánh giá
cao nỗ lực và cố gắng của từng cá nhân để trở
thành một người lao động liêm chính. Tôi luôn
đề cao sự công bằng. Tôi quan tâm nhưng không
phải đồng môn của các em. Tuy vui vẻ cười đùa
cùng nhau, nhưng tôi là một người trưởng thành
và cần giữ được tác phong nghiêm túc trong lớp
học.
10 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
Shveta Miller1 | LISA dịch
Yêucầuhọcsinhtrunghọccơsởvàtrunghọcphổ
thôngphácthảonhữngđiềumàcácemđã được
họccóthểgiúpgiáoviênhiểurõhơnvềnhững
khíacạnhcácemđãhiểuvàchưahiểu.
Đánh giá quá trình, được thực hiện thường xuyên
sau khi dạy các ý chính trong bài học, là cánh
cửa giúp giáo viên nhìn được những điều học
sinh còn hiểu sai hoặc còn thắc mắc về một khái
niệm hoặc chủ đề nào đó. Việc yêu cầu học sinh
xử lý và thể hiện sự hiểu biết của mình bằng hình
vẽ cung cấp cho giáo viên những thông tin đáng
kinh ngạc để định hướng những bước giảng dạy
cần thực hiện tiếp theo.
Yêu cầu học sinh vẽ những gì các em đã học
Vẽ trong khi học cho phép chúng ta nắm bắt một
khái niệm, hình ảnh, sự kiện hoặc đối tượng và
giải phóng không gian nhận thức để chúng ta có
thể bắt đầu suy nghĩ một cách có phản biện. Nếu
tôi nhanh chóng phác thảo một vài nhân vật từ
một cuốn tiểu thuyết với một chi tiết nhỏ nhưng
quan trọng để phân biệt từng nhân vật, cùng với
những mũi tên để mô tả mối quan hệ giữa họ qua
1 https://www.edutopia.org/article/using-draw-
ings-formative-assessment
các thế hệ, thì bây giờ tôi có thể suy nghĩ kỹ càng
về những mối quan hệ đó, về cách mà các nhân
vật ảnh hưởng đến nhau và cách mà họ phát
triển xuyên suốt câu chuyện. Tương tự, nếu tôi
phác thảo một cách đại khái các yếu tố của một
quy trình khoa học, tôi có thể bắt đầu suy nghĩ về
chức năng và cách chúng tích hợp để vận hành.
Vẽ khi học đòi hỏi chúng ta phải tư duy trừu tượng
và có lối suy nghĩ ẩn dụ về mặt nội dung, điều này
giúp chúng ta lưu trữ và hiểu nó theo những cách
tinh vi hơn. Một học sinh vẽ khi học sẽ cân nhắc
những điều sau:
- Mình nên thể hiện mối quan hệ giữa các phần
này như thế nào?
- Mình nên vẽ những phần này lớn/nhỏ đến
mức nào?
- Chúng nên có hình dạng gì?
- Mình nên đặt những phần này ở đâu?
Bởi vì học sinh đưa ra nhiều quyết định khi các
em chuyển nội dung thành hình ảnh nền giáo
viên có thể khám phá các định kiến, quan niệm
sai lầm của các em, mức độ hiểu biết và hứng
thú của mỗi em về nội dung đó.
Coi việc xây dựng sự tự tin khi vẽ như một công
cụ học tập
Vẽ có những lợi ích học tập đáng kể và điều quan
SỬ DỤNG HOẠT ĐỘNG VẼ TRONG ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH
11
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
trọng là phải tích hợp nó vào trải nghiệm học tập
đầy đủ. Chúng ta có thể trang bị cho học sinh
những công cụ cơ bản để trở nên tự tin trong việc
vẽ và cho phép các em sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau để xử lý và thể hiện tư duy của
mình. Chúng ta có thể khơi dậy sự quan tâm đến
một chủ đề bằng cách đưa ra nhiều phương thức
học tập. Ngoài ra, việc tận dụng tư duy trực quan
sẽ thu hút các kỹ năng đa dạng của học sinh.
Học sinh không cần có kỹ năng nghệ thuật giỏi
để trải nghiệm những lợi ích nhận thức của việc
vẽ khi học. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần chú ý
xoa dịu các lo lắng và giải thích những lầm tưởng
về việc học tập dựa trên hình ảnh.
1. Để học sinh tự lựa chọn giữa việc vẽ và các
phương pháp khác để thể hiện việc học của
mình.
2. Đưa ra một mô hình bản vẽ mẫu. Thay thế
ngôn ngữ tư duy cố định như “Tôi không thể
vẽ” bằng lời tường thuật mô tả quá trình
như: “Tôi muốn chứng tỏ rằng các yếu tố này
phụ thuộc vào nhau, vì vậy tôi sẽ vẽ các hộp
này xếp chồng lên nhau.”
Chuỗi bài học của Dan Santa #DrawLikeAKid2
(Vẽ như một đứa trẻ) trình bày cách vẽ rất
nhiều thứ chỉ với một vài khối hình đơn giản
và các chữ cái.
3. Nhắc nhở học sinh suy ngẫm về kinh nghiệm
của chúng qua các bức vẽ để các em bắt đầu
coi nó như một công cụ học tập hữu ích.
- Mình có thể nhớ được kỹ đến mức nào sau
khi thể hiện kiến thức qua bản vẽ của mình?
- Khi nào thì mình nên vẽ, khi nào không?
Sử dụng bản vẽ của học sinh để giảng dạy
Phản hồi mà chúng ta cung cấp cho học sinh về
các bản vẽ và lựa chọn mà chúng ta đưa ra tiếp
theo cũng quan trọng như chính bản vẽ vậy.
Học sinh bắt chước các biệt ngữ hoặc từ vựng mà
2 https://www.instagram.com/p/CS91RB-
pv8KO/?hl=en
các em đọc hoặc nghe, điều này có thể che khuất
những gì các em thực sự hiểu. Là một phương
pháp đánh giá quá trình, giao tiếp bằng lời có thể
có vấn đề vì giáo viên có thể khó nắm bắt những
gì học sinh thực sự hiểu. Khi học sinh vẽ lúc các
em giải thích, sẽ rất khó để giấu đi những phần
tối trong kiến thức của các em. Những hiểu lầm
rõ ràng, cùng với những sai lầm nhỏ hơn có thể
ẩn giấu trong các bức vẽ của học sinh.
Dưới đây là một số cách để tích hợp bản vẽ vào
đánh giá quá trình:
- Biểu tượng đường kẻ màu: Vẽ đường thẳng,
chọn màu hoặc chọn biểu tượng để thể hiện
những hiểu biết hiện tại của bạn về khái niệm
bạn đang học. Hãy chuẩn bị để giải thích lại
dựa trên bản vẽ ấy.
- Vẽ một hình ảnh đại diện (ví dụ cho lực hấp
dẫn, cách cấu trúc một bài văn nghị luận,
mối quan hệ giữa nhân vật chính và nhân vật
phản diện, hệ thống limbic).
- Chỉ sử dụng các hình đơn giản (hình tròn,
vuông, tam giác) để biểu diễn các mối quan
hệ (giữa các ký tự, nguyên tắc, sự kiện, định
luật, khái niệm toán học).
- Tạo một tác phẩm truyện tranh/nghệ thuật
tuần tự để đại diện cho một hệ thống nào
đó, để chắt lọc các yếu tố chính của một câu
chuyện hoặc sự kiện, hoặc để sắp xếp các
bước thiết yếu của một quy trình và thể hiện
mối quan hệ nguyên nhân - kết quả.
Để sử dụng hiệu quả các bức vẽ của học sinh để
làm dữ liệu đánh giá quá trình, hãy xem xét
những điều sau khi bạn kiểm tra những bức
vẽ đó:
- Những sự kiện, mối quan hệ, trình tự,... nào
học sinh đã hiểu được?
- Những yếu tố chính nào đã bị bỏ qua?
- Những yếu tố nào bị trình bày sai?
- Những yếu tố, mối quan hệ, chi tiết,... nhất
định được thể hiện như thế nào?
- Làm thế nào để so sánh các bức vẽ của học
12 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
sinh? Bạn thấy được những họa tiết nào? Có
điều gì đặc biệt về chúng?
- Bản vẽ này cung cấp những hiểu biết gì về
nội dung?
Trong khi xem lại bản vẽ của một học sinh trung
học trình bày về quy trình làm bánh mì, tôi nhận
thấy rằng cậu bé có hiểu một số khái niệm
chính: Cậu bé biết có hai loại protein liên kết để
tạo thành gluten và các bức vẽ đơn giản của em
chứng minh lý do mà mỗi loại tự nó không thể
đem lại tính mềm xốp cho chiếc bánh mì. Nhưng
tôi tự hỏi liệu em ấy có hiểu vai trò của các axit
amin, nước, sự trộn lẫn và nhào trộn trong quy
trình này không.
Trong phản hồi của mình, tôi thừa nhận các yếu
tố mà em ấy minh họa một cách chính xác. Sau
đó, để xác định xem liệu em có thể hiểu được sự
phức tạp của quá trình này hay không thì tôi sẽ
hỏi em ấy rằng: Đây có phải là những yếu tố duy
nhất cần thiết để hai loại protein tạo ra gluten
hay không? Bản vẽ này đang thiếu những gì? Bạn
có thể bổ sung nó ở đâu và như thế nào?
Khi chúng ta thấy tư duy được thể hiện dưới dạng
trực quan, chúng ta - học sinh và giáo viên - sẽ
có được những hiểu biết có giá trị về các khái
niệm liên quan. Chúng ta học hỏi từ những gì
người khác thấy, từ những lựa chọn mà họ đưa
ra để thể hiện một ý tưởng, và thậm chí cả những
quan niệm sai lầm mà họ có thể mắc phải.
Suy nghĩ thì luôn lộn xộn - chúng ta thường không
tuân theo một quy trình cứng nhắc và nhất quán
để suy nghĩ thấu đáo các vấn đề, mặc dù một quy
trình từng bước ổn định thường được sử dụng
để giải quyết một vấn đề toán học, hình thành
giả thuyết hoặc viết lập luận. Cung cấp cho học
sinh các cơ hội có cấu trúc rõ ràng để thể hiện tư
duy của các em bằng cách vẽ cho phép các em
thể hiện các quy trình tư duy độc đáo của mình
thông qua việc suy nghĩ về các khái niệm và vấn
đề phức tạp từ đó đưa ra các giải pháp sáng tạo.
Khi chúng ta nhìn thấy được tư duy của học sinh,
chúng ta phát hiện ra những chi tiết nhỏ nhất về
những gì các em làm và chưa hiểu. Từ đó, chúng
ta có thể chuẩn bị tốt hơn để giúp củng cố sự
hiểu biết của các em và để xây dựng bài giảng
dựa trên những dữ liệu đó.
13
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
Crystal Frommert1 | Duy Vũ dịch
Những học sinh cấp hai và cấp ba của tôi vội vàng
bước vào lớp cùng với bài tập về nhà đã được
hoàn thành, sẵn sàng đưa ra những câu hỏi cho
bài học ngày hôm ấy. Các em đã làm hết bài tập
không phải vì mong muốn có được điểm số tốt
mà là vì tinh thần ham học hỏi của chính mình...
và rồi tôi tỉnh dậy từ giấc mơ ngọt ngào ấy.
Thực tế phũ phàng là các em liên tục kiểm tra
và lo lắng về điểm số của mình. Các em thường
hỏi tôi:
● Em sẽ bị trừ bao nhiêu điểm nếu em quên
làm một bài trong sách?
1 Nguồn:https://www.edutopia.org/article/5-ways-
help-students-focus-learning-rather-grades
● Cô sẽ trừ bao nhiêu điểm khi em mắc lỗi
chính tả?
● Em cần phải làm gì để đạt điểm A (9.0/10)
trung bình các môn?
Sau khoảng thời gian dà thực trạng này diễn ra ở
những lớp toán của tôi, tôi bắt đầu phải nhìn lại
những gì mình đã làm góp phần tạo nên văn hóa
quá chú trọng vào điểm số này. Thật xấu hổ khi
phải thừa nhận rằng tôi đã khen ngợi học sinh
dựa trên điểm số thay vì dựa trên những nỗ lực
và sự cải thiện của các em. Những buổi họp phụ
huynh cũng chỉ chú ý vào điểm số hơn là thảo
luận về những gì các em đã học được ở trường.
Trong lúc tôi đang nhìn nhận lại bản thân, tôi
cùng những đồng nghiệp khác, những người
NĂM CÁCH ĐỂ HỌC SINH CHÚ ÝNĂM CÁCH ĐỂ HỌC SINH CHÚ Ý
VÀO KIẾN THỨC THAY VÌ ĐIỂM SỐVÀO KIẾN THỨC THAY VÌ ĐIỂM SỐ
14 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
cũng đang quá chú trọng vào việc cho điểm học
sinh, đã chia sẻ với nhau những cách thức để
thoát khỏi tình trạng học sinh học chỉ vì điểm
trong khi vẫn sử dụng điểm số để đánh giá các
bài tập của các em.
5 THAY ĐỔI ĐỂ TRÁNH XA “VĂN HÓA” HỌC VÌ
ĐIỂM SỐ
1. Thay đổi cách nói chuyện của bạn (với cả
học sinh lẫn phụ huynh)
Trước đây, khi một học sinh cảm thấy chán nản
với việc làm bài tập, tôi thường đe dọa: “Em phải
hoàn thành bài tập vì cô sẽ lấy điểm bài này!”
Còn bây giờ, tôi sẽ khuyến khích rằng: “Em đã
làm rất tốt trong việc rút gọn các đơn vị radi-
an. Cô đang rất mong đợi xem em sẽ áp dụng
kỹ năng đó trong những bài tập về định lý Py-ta-
go như thế nào.” Có phải cách này luôn có thể
dùng được không? Dĩ nhiên là không. Tuy nhiên,
việc cố tình dùng các từ ngữ hướng vào việc học
tập thay vì điểm số của tôi đã bắt đầu gây ra sự
chuyển biến tích cực trong lớp học.
Cách nói chuyện của tôi với các bậc phụ huynh
cũng đã thay đổi. Khi trò chuyện qua email hoặc
điện thoại cho phụ huynh, tôi tập trung đề cập
đến những nội dung và kỹ năng học trò mình đã
học được thay vì chỉ nhấn mạnh vào điểm. Khi
phải đề cập đến điểm của học trò, tôi sẽ nói:
“Devon đã đạt được 35 trên 42 điểm ở bài tập gần
nhất. Tôi nghĩ rằng em nên tập cách phân tích số
nguyên tố nhiều hơn để chuẩn bị cho chương tiếp
theo.” Có lẽ đây là một cách khôn ngoan khi nhắc
đến những con số, nếu tôi nói rằng em ấy chỉ
được B- thay vì 35/42 điểm, phụ huynh sẽ cảm
thấy con mình có điểm số tệ.
2. Công bố điểm gián tiếp
Tôi có được ý tưởng này là nhờ bài Blog của Kristy
Louden về cách để học sinh chú ý hơn đến nhận
xét của giáo viên thay vì điểm của mình. Loud-
en đã viết: “Hãy trì hoãn việc học sinh thấy được
điểm của mình để hướng sự chú ý của các em
vào lời nhận xét của giáo viên hơn.”
Tôi cùng một giáo viên toán khác đã thử nghiệm
phương pháp này. Trong lớp học, tôi vẫn sẽ chấm
điểm từng câu cho học sinh với một chút ghi chú
ở bên cạnh, nhưng sau khi chấm, chúng tôi không
ghi bất kỳ điểm số hay điểm chữ nào lên bài kiểm
tra. Khi trả bài, học sinh sẽ được yêu cầu kiểm
tra lại các câu sai và tự sửa bài của mình. Khi trợ
giúp học sinh sửa bài, tôi sẽ chỉ thảo luận về nội
dung và nhận xét, và vẫn sẽ không cho điểm.
Ban đầu việc này làm các em khá ngạc nhiên, tuy
nhiên qua thời gian các em bắt đầu chú ý vào việc
thể hiện kiến thức của mình. Tôi sẽ hẹn riêng với
từng học sinh vào ngày hôm sau nếu các em yêu
cầu được biết điểm của mình (Dĩ nhiên tôi vẫn
phải cho điểm vì đó là yêu cầu của nhà trường).
3. Giảm số đầu điểm
Nghiên cứu khuyên rằng bài tập về nhà hoặc các
bài đánh giá quá trình không nên lấy điểm. Rất
nhiều giáo viên tôi quen biết sẽ cho điểm học
sinh với mỗi bài tập mà các em hoàn thành. Tôi
đã dừng hẳn việc đó vài năm về trước nhưng vẫn
ghi lại tất cả những ai đã làm hoặc chưa làm bài
tập về nhà để báo cáo trong những cuộc họp phụ
huynh. Tôi nhấn mạnh rằng bài tập về nhà là một
cơ hội tốt để học sinh luyện tập và khám phá
kiến thức mới thay vì coi đó là một đầu điểm. Để
giảm thiểu áp lực, tôi thông báo với học sinh rằng
những bài điểm thấp nhất sẽ được bỏ đi và không
tính vào cột điểm. Điều này đã giải tỏa rất nhiều
lo lắng cho các em.
4. Cho cơ hội làm lại
Tôi là một fan trung thành của trang blog được
viết bởi cô Starr Sackstein, nơi mà cô thường
viết về cách chấm điểm chuẩn hóa. Trong những
bài đăng gần đây, cô đã viết: “Những bài kiểm tra
chỉ được làm một lần đa số sẽ không thể giúp
các em thể hiện hết mình do sự giới hạn của trí
15
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
nhớ.” Tổ toán của trường tôi có một chính sách
cho phép học sinh thực hiện lại bài kiểm tra để
cải thiện cột điểm xấu nhất của học kỳ đó. Nếu
trường bạn không có chính sách này, hãy đề xuất
với nhà trường. Hoặc hãy tự sáng tạo một cách
để cho học sinh cơ hội làm lại vì lợi ích học tập
của các em - chứ không phải chỉ đơn giản là thay
điểm.
5. Cho phép học sinh tự chấm điểm
Tôi thường nghe thấy những lời phản biện khi
nhắc đến điều này: “Nếu ta không chấm điểm
các em theo cách truyền thống thì làm sao có
thể chuẩn bị được cho các em vào môi trường
đại học?” Dĩ nhiên, thật khó để chúng ta có thể
dự đoán được những gì các em sẽ đối mặt ở môi
trường giáo dục sau phổ thông, nhưng có vẻ như
đang có một trào lưu hướng đến việc “không
chấm điểm” ở một số giáo sư đại học. Một bài
báo của Inside Higher Ed năm 2019 đã ghi rằng
“hoàn toàn hợp lý về mặt sư phạm khi các giáo
sư thực hiện việc [không chấm điểm] đó, các
kinh nghiệm nghiên cứu cho thấy điểm số đóng
vai trò ngoại lực (không phải nội lực) tác động
vào động lực của các em, làm giảm hứng thú học
tập và gia tăng nỗi sợ thất bại. Hơn nữa, điểm số
không phải là thước đo phải có để đánh giá quá
trình học tập của học sinh. Và, dựa trên nghiên
cứu bổ sung, chúng ta biết rằng việc cho điểm
này đang được lạm dụng khắp nơi.”
Giáo viên có thể giảm bớt phần nào những tác
động tiêu cực bởi điểm số lên học sinh bằng cách
trao cho các em quyền tự đánh giá. Khi học sinh
thực hiện phiếu chấm điểm chéo, hãy yêu cầu
học sinh tự cho điểm chính mình, và hãy dành
một ít thời gian để trò chuyện với các em về
những gì các em ghi trong đó. Đôi khi điểm các
em tự cho mình có thể thấp hơn điểm mà bạn
định cho, và đó là dấu hiệu tốt để bắt đầu cuộc
trò chuyện. Hơn nữa, tự chấm điểm, tự đánh giá
sẽ giúp các em làm chủ được việc học của mình
và tăng cường khả năng siêu nhận thức của các
em (metacognitive).
Trong giấc mơ của tôi, thầy cô giáo chúng ta sẽ
không còn phải cho điểm học sinh nữa, và học
sinh có thể vui vẻ hoàn thành tất cả bài tập là
nhờ sự hứng thú vào việc học của các em. Nhưng
trong thực tế, điểm số, với nhiều thiếu sót, lại
quyết định vị trí và xếp hạng của học sinh. Tuy
nhiên, chúng ta, những thầy cô giáo, có thể sáng
tạo trong những giới hạn của bốn bức tường lớp
học để làm cho điểm số đánh giá chính xác hơn
và gây ít áp lực hơn lên học sinh của mình.
16 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Dạy thế nào
Số 42 - 2021
Carl Leonard, Gail Brown1
LISAdịch
Tùy thuộc vào thành phố hay khu vực mà bạn
đang ở, trở lại trường học là một việc sớm muộn
sẽ xảy ra. Đối với giáo viên và học sinh, đó sẽ là
thời điểm thú vị nhất, còn phụ huynh hẳn là sẽ
cảm thấy may mắn và nhẹ nhõm hơn rất nhiều.
1 Nguồn:https://www.teachermagazine.com/au_en/
articles/covid-19-how-teachers-can-help-students-transi-
tion-back-to-school
Chuyển giao từ học trực tuyến sao trực tiếp cũng
là thời điểm quan trọng liên quan đến việc tối đa
hóa các cơ hội học tập, ngay cả trong thời điểm
này hay sau khi trường học mở cửa đi nữa.
Giờ đây, chúng ta đã và đang thay đổi, và chúng
ta có thể hỗ trợ cho nhau, cùng nhau tiến về phía
trước.
Tình hình mỗi trường mỗi khác. Tại thời điểm viết
HỖ TRỢ HỌC SINH KHI TRƯỜNG HỌC
MỞ CỬA LẠI
17
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
bài báo này, các mức độ hạn chế khác nhau vẫn
đang được thực hiện cho việc quay trở lại trường
học; mặc dù trong hầu hết các trường hợp, quá
trình chuyển đổi từ học trực tuyến sang trực tiếp
diễn ra sớm hơn nhiều so với dự kiến.
Dưới đây là một số tip và đề xuất để hỗ trợ cộng
đồng trường học quản lý quá trình chuyển đổi
này cho tất cả học sinh, đặc biệt là những em có
nhu cầu hỗ trợ thêm.
Quy trình, cấu trúc và giao tiếp
Việc trở lại trường học với các thói quen học tập
cũ càng nhanh càng tốt giống như một tấm chăn
mùa đông ấm áp và thoải mái cho tất cả các học
sinh, đặc biệt là các học sinh có nhu cầu cần hỗ
trợ. Ví dụ, nhiều gia đình có con em mắc chứng
tự kỷ chính là minh chứng cho việc những thay
đổi hàng ngày liên quan đến COVID-19 tuyệt đối
là một bãi mìn nguy hiểm. Điều này có thể đúng
đối với nhiều học sinh, có hay không có nhu cầu
bổ sung hỗ trợ, những người mà sự phát triển đã
vượt ra khỏi các ranh giới đã biết và các thói quen
có thể hàng ngày. Việc sử dụng phương pháp
giao tiếp quen thuộc như bản tin hoặc email, để
thông báo cho gia đình về những gì thay đổi hoặc
không về hệ thống, cấu trúc và quy trình, có thể
là một cách thể hiện sự hoan nghênh phụ huynh
và người chăm sóc chuẩn bị cho học sinh trở lại
trường học.
Khai thác kinh nghiệm tự cách ly để xây dựng sự
tự tin của học sinh
Một mức độ trách nhiệm chưa từng thấy mà học
sinh ở mọi lứa tuổi phải gánh vác là đáng để khen
ngợi và tận dụng. Các nhà quản lý thông minh
sẽ sử dụng kết quả chất lượng của học sinh qua
thời kỳ học ở nhà như một phương tiện cho việc
dạy và học. Phản hồi này có thể được sử dụng
để tạo niềm tin vào khả năng tự định hướng của
học sinh. Hơn nữa, xây dựng niềm tin dựa mức
độ tự tin và tự chủ mới đạt được này là một cách
khác để giáo viên thể hiện sự quan tâm của minh
đến học sinh, tạo một môi trường học tập an toàn
và hỗ trợ, nơi học sinh được thử thách để thành
công hơn.
Lên kế hoạch để hòa nhập và giảm nỗi lo lắng
Giao tiếp và lập kế hoạch rõ ràng là cách để giảm
bớt lo lắng xung quanh quá trình chuyển đổi này.
Tất cả các nhà giáo dục, đặc biệt là lãnh đạo
trường học, cần dành thời gian để suy nghĩ và
lập kế hoạch cho việc tích hợp các phương pháp
phòng tránh lây nhiễm COVID-19 vào các thói
quen thường ngày và cấu trúc học tập đã được
thiết lập trước đó, để đảm bảo rằng học sinh sẽ
có những trải nghiệm “bình thường” nhất có thể
khi quay trở lại trường. Ở cấp độ giảng dạy, giáo
viên có thể đưa ra nhiều điểm xuất phát kiến thức
khác nhau (thay vì chỉ có hai lựa chọn tham gia
được hay không tham gia được) để giúp giảm bớt
sự lo lắng của học sinh. Lập kế hoạch hòa nhập
bằng cách thiết kế các hoạt động giảng dạy và
học tập để đáp ứng nhu cầu của tất cả học sinh
chưa bao giờ quan trọng đến thế.
Ví dụ: những học sinh có khả năng tiếp cận
hiệu quả với công nghệ tại nhà có thể đã tiến bộ
trong việc học tập trong khoảng thời gian không
được đến trường, trong khi những học sinh khác
không có hoặc sự tiếp cận hạn chế hơn, và/hoặc
những học sinh có thêm những nhu cầu học tập
khác có thể sẽ tiến bộ chậm hơn. Chúng ta có
thể coi đây là “Khoảng cách Đa dạng COVID”, và
nó sẽ chỉ làm trầm trọng hơn sự khác biệt đã
sẵn có giữa những học sinh vốn cần sự trợ giúp
nhất với những học sinh khác khi các em quay
trở lại trường học. Do đó, nhu cầu phân biệt khả
năng học tập trên lớp hiện nay sẽ lớn hơn so với
trước kia rất nhiều. Điều quan trọng là, tác động
của việc gia tăng khoảng cách học tập này có thể
vượt lên trên cả khả năng học tập của học sinh
và tác động tiêu cực đến sức khỏe của các em.
Bằng cách thể hiện sự đồng cảm với học sinh
(giống như “chúng ta đều bị rơi vào tình huống
này cùng nhau”) và thừa nhận những khó khăn
18 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
phải đối mặt trong quá trình cách ly/giãn cách
xã hội, giáo viên có thể hỗ trợ cho học sinh của
mình.
Các ví dụ khác có thể trợ giúp các học sinh, đặc
biệt là những học sinh có nhu cầu hỗ trợ thêm,
bao gồm:
● Chia sẻ thời gian biểu trực quan đã được
chuẩn bị và điều chỉnh trước khi trở lại trường
học;
● Truyền đạt thông tin rõ ràng cho các gia
đình về các thủ tục và giao thức phòng tránh
COVID-19 ở trường;
● Giáo viên sử dụng kiến thức chuyên môn của
họ về học sinh để chuẩn bị và hỗ trợ những
em dễ lo âu hơn những em khác
● Giáo viên hoặc Nhân viên trong trường học
luôn ở đó lắng nghe khi học sinh cần người
để tâm sự
Chia sẻ và khám phá những kinh nghiệm học tại
nhà
Dành thời gian để khám phá và học về những
trải nghiệm của học sinh, đặc biệt là những trải
nghiệm học tại nhà, sẽ là một phần quan trọng
trong bước đầu của quá trình chuyển đổi - cả vì
lý do cần chia sẻ và lý do về giảng dạy và học tập.
Học sinh sẽ cần thời gian và không gian để điều
chỉnh lại việc học tập tại trường. Đối với một số
em, quá trình chuyển đổi này sẽ chứa đựng nhiều
lo lắng như ngày đầu tiên đến trường hoặc ngày
đầu của năm học. Chuẩn bị và đáp ứng những
nhu cầu nên là một trong những ưu tiên hàng
đầu.
Tất cả chúng ta đều học bằng cách suy nghĩ và
phản ánh về những điều chúng ta đã trải qua
hoặc đã làm trong cuộc sống của mình. Ví dụ,
một hình ảnh đơn giản cho trẻ nhỏ có thể là:
“Em có thích:
● Ở nhà hơn là đến trường không?
● Gặp mặt bạn bè không?
● Làm mọi việc cùng gia đình không?
● Đứng thật gần cạnh người khác không?
● Không được thăm gia đình mình không?
● Rửa tay trong 30 giây không?”
Những câu này ngầm ẩn sự thừa nhận rằng mọi
thứ đã thay đổi. Là giáo viên, chúng ta có thể
tự viết các câu của riêng mình nhưng phải đảm
bảo một số từ ngữ là tích cực, và một số khác là
tiêu cực. Học sinh có thể vẽ các bức tranh thể
hiện những trải nghiệm cùng gia đình trong quá
trình tự cách ly. Học sinh nhỏ tuổi hơn có thể
giơ tay hoặc mặt cười để cho biết các em nghĩ
gì về những câu hỏi trên. Học sinh lớn hơn có
thể sử dụng chúng làm mẫu cho bài viết về cảm
xúc và kinh nghiệm của mình khi tự cách ly tại
nhà. Cuộc thảo luận có thể được đào sâu hoặc
mở rộng bằng cách thêm từ “bởi vì” vào cuối mỗi
câu, hoặc đơn giản hơn bằng cách hỏi “Tại sao?”.
Điều này có thể thúc đẩy suy nghĩ, lập luận và
viết ra những ý tưởng và lý do phức tạp hơn.
Sau đó, chúng ta có thể kiểm tra một số mẫu trả
lời này và/hoặc phỏng vấn các em về những kinh
nghiệm được chia sẻ từ góc nhìn của việc dạy và
học, để có thu được những ý tưởng thú vị từ quan
điểm của học sinh về phương pháp học tập tốt
nhất (quá trình tự giám sát, phản ánh, siêu nhận
thức).
Nói chuyện với trẻ về những hiểu biết của các em,
đặc biệt là những hiểu biết về COVID-19 là rất
quan trọng. Đây không phải là cuộc trò chuyện
“một lần duy nhất”, trẻ em học hỏi qua những
cuộc trò chuyện lặp đi lặp lại theo thời gian.
Những cuộc đối thoại này bao gồm một số câu
hỏi điển hình mà học sinh và con cái của chúng
ta có thể hỏi, và những cách chúng ta có thể nói
và tìm hiểu về tất cả những thay đổi đang diễn ra.
Ngoài ra, còn có các hoạt động gợi ý mà giáo viên
có thể sử dụng để bắt đầu thảo luận hoặc cho
những bài tập viết.
Một mối quan hệ gia đình-trường học mới
19
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
Trong thời gian học tại nhà, tất cả giáo viên, đặc
biệt là giáo viên của những học sinh cần sự hỗ
trợ đặc biệt, cần phải chú ý để không gây mệt mỏi
thêm cho phụ huynh, người chăm sóc - những
người vốn đã phải chịu rất nhiều gánh nặng khi
phải chăm sóc những đứa trẻ có nhu cầu đặc biệt
như vậy. COVID-19 đã tạo ra rất nhiều phức tạp,
bất an và lo lắng. Tất cả chúng ta đều đang cố
gắng cân bằng và đối phó với những tác động từ
cuộc sống ở nhà lên công việc. Đáng mừng thay,
điều này đã tạo ra nhiều cơ hội hơn để phụ huynh
và người chăm sóc hiểu và đồng cảm với công
việc của giáo viên và ngược lại. Có lẽ sẽ không có
thời điểm nào tốt hơn bây giờ để các trường khai
thác chiều sâu mối quan hệ này để hỗ trợ việc
học tập của học sinh.
Đây là một cơ hội thực sự để củng cố, và thậm chí
là mở rộng, các chiến lược và cấu trúc giao tiếp
với phụ huynh và người chăm sóc. Khi phụ huynh
và người chăm sóc hiểu rõ hơn về nội dung học
có thể tạo điều kiện cho việc thiết lập các mục
tiêu học tập có ý nghĩa hơn và hỗ trợ tốt hơn cho
học sinh ở môi trường gia đình. Đối với những
học sinh có các nhu cầu đặc biệt, một mối quan
hệ phụ huynh - giáo viên bền chặt sẽ giúp tăng
cường các hiểu biết chung về học sinh cho cả hai
phía để điều chỉnh các quy trình học tập sao cho
phù hợp nhất với các nhu cầu đặc biệt đó.
Ví dụ, một đứa trẻ có nhu cầu lớn về sự sạch sẽ
có thể đã gia tăng sự độc lập cao hơn trong suốt
quá trình học tại nhà. Thông qua một cuộc họp
đánh giá kịp thời, sự độc lập mới này có thể được
kết hợp vào các thói quen đã được điều chỉnh
tại trường học và các mục tiêu nâng cao của
IEP (Individual Education Plan - Kế hoạch Giáo
dục cá nhân). Tương tự, với một đứa trẻ có khả
năng thích ứng cao hoặc theo học một chương
trình khác biệt yêu cầu các thiết bị và công nghệ
chuyên biệt trước COVID-19, phụ huynh và giáo
viên có thể tìm ra những cách mới để tiếp tục sử
dụng công cụ đó bên ngoài trường học. Đây sẽ là
một cơ hội lớn để khai thác những kỹ năng mới
trong quá trình học tập thích ứng kế hoạch của
tương lai.
20 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
The Economist Brieng June 26th 20211
MinhTrang lượcdịch
Covid 19 tạo ra sự gián đoạn chưa từng có trong
lịch sử ngành ngành giáo dục. Đến giữa tháng
4/2020, hơn 90% trường học trên toàn thế giới
phải đóng cửa. Tình trạng đóng cửa trường học
vẫn chưa đi đến hồi kết này đã và đang ảnh hưởng
không nhỏ đến học tập, an toàn và sự phát triển
về thể chất cùng tinh thần của trẻ. Thời điểm trẻ
1 Howcovid-19isinspiringeducationreform|The
Economist
em tại các quốc gia phát triển quay trở lại trường,
các nhà cải cách mong rằng “cú sốc” Covid-19
sẽ tạo ra những thay đổi tích cực tới trường học:
hiệu quả, linh hoạt và công bằng hơn.
Trường học đóng cửa đã đẩy giáo viên vào một
cuộc “cải cách” với thời gian chuẩn bị chóng
vánh chỉ tính bằng đơn vị ngày. Cùng lúc, toàn bộ
chương trình học được xây dựng lại.
Tiến độ và kết quả học tập của học sinh bị đình
COVID-19 ĐANG THÚC ĐẨY
CÁC CẢI CÁCH GIÁO DỤC
21
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
trệ. Justin Reich thuộc Viện công nghệ Massa-
chusetts chia sẻ, với phần lớn các gia đình Mỹ,
học trực tuyến là “một thứ gì đó nằm giữa sự thất
vọng và thảm hoạ”. Theo số liệu ghi nhận được
ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhiều em không
theo kịp bài học thậm chí không thu nạp được
bao nhiêu suốt khoảng thời gian học trực tuyến.
Những học sinh có gia cảnh khó khăn là những
người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Theo một ng-
hiên cứu ở Hà Lan, tình trạng thất học cao hơn
50% ở nhóm học sinh nghèo. Tới mùa thu năm
2020, tiến độ môn tiếng Anh của trẻ 8 đến 9 tuổi
ở Ohio đã chậm khoảng ⅓ chương trình cả năm
so với những năm trước. Điều này thể hiện rất rõ
ở điểm kiểm tra giảm tới hơn một nửa của học
sinh da màu.
Trường học “tan đàn xẻ nghé”
Việc đóng cửa trường học càng nhấn mạnh hơn
tầm quan trọng của dạy học trực tiếp đối với sức
khỏe thể chất và tâm thần của học sinh. Trẻ em Ý
ăn uống kém lành mạnh hơn khi ở nhà. Nhiều báo
cáo cũng chỉ ra tình trạng gia tăng và lan rộng
của bạo hành trẻ em, bởi các em giờ đây không
còn ở trong vòng tay và tầm mắt của giáo viên -
thường là những người đầu tiên phát hiện ra sự
bất thường. Bên cạnh đó, theo Yoshinaga Sakura
- một giáo viên trung học ở Numazu miền trung
Nhật Bản, khi trường học đóng cửa, trẻ thường
phải ở nhà một mình do cha mẹ vẫn phải đi làm.
Cô nghĩ điều này là một phần nguyên nhân kh-
iến số trường hợp tự làm bản thân bị thương gia
tăng. Euan Morton - một giáo viên trung học cơ
sở ở Melbourne, Úc chia sẻ, sự trưởng thành về
hành vi, nhận thức hay thái độ của một số em có
khoảng thời gian học trực tuyến liên tục dường
như kém hơn so với mong đợi: “Sự phát triển
trong kỹ năng xã hội không hề song hành với sự
phát triển về học tập của học sinh”.
Tuy nhiên, vẫn có những điểm sáng. Khủng
hoảng đã làm mối liên hệ giữa cha mẹ và thầy cô
trở nên gần gũi hơn - điều mà theo nhiều nghiên
cứu thể hiện tác động tích cực rõ rệt trong tỷ lệ
tham gia lớp học và sau đó là kết quả học tập
được cải thiện đáng kể của học trò. Trong cuộc
bỏ phiếu gần đây thực hiện bởi Đại học John
Hopkins, hơn một nửa số hiệu trưởng trường học
tại Mỹ cho biết mối quan hệ của họ với phụ huynh
học sinh đã được kéo gần hơn bao giờ hết so với
ngày trước.
Đại dịch cũng trở thành cú hích đưa việc áp dụng
công nghệ vào giảng dạy, mà trước đây vẫn luôn
diễn ra chậm chạp. Theo Victoria Richmond, hiệu
trưởng một trường tiểu học ở Đông Nam nước
Anh, chẳng có lựa chọn nào khác ngoài đầu tư
vào máy tính. Giờ con của cô đã trở lại lớp, máy
tính bảng trường học trang bị cung cấp cho lũ
trẻ công cụ dịch thuật trực tiếp ngay tại lớp học
- một điều đặc biệt có lợi với những em không có
ngôn ngữ mẹ là tiếng Anh. Hiệu trưởng của một
số trường còn cho biết, Covid-19 thực sự đã đẩy
nhanh tiến độ đầu tư vào công nghệ của trường
học lên cả một thập kỷ.
Một điểm sáng nữa đó là thành tích của một số
em được cải thiện khi học trực tuyến, đặc biệt
là những em mắc chứng lo âu hoặc là nạn nhân
của bạo lực học đường. Nhiều em ngại phát biểu
ý kiến trong lớp dường như cảm thấy bớt áp lực
hơn trong giờ nhờ sự trợ giúp của tính năng gọi
video và nhắn tin. Jal Mehta thuộc Đại học Har-
vard cho rằng học trực tuyến có thể mang lại lợi
ích cho một số em tư chất tốt, tự giác và thích
học nhưng “mệt mỏi với những khía cạnh xã hội
ở trường.” Nhiều em cũng tới lớp đầy đủ hơn khi
chuyển từ học trực tiếp sang trực tuyến. “Học
trực tuyến khiến việc tham gia lớp học dễ dàng
hơn. Ngay cả khi không khỏe cũng không hề gì.”,
chia sẻ của Lila Conte - một học sinh 12 tuổi
chăm chỉ tới từ Bronx.
Kể từ khi học sinh phải học ở nhà, nhận thức
về bất bình đẳng trong xã hội ngày càng được
nâng cao. Chứng kiến cảnh giáo viên chật vật
22 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
gửi laptop, thiết bị phát Wi và thực phẩm cho
các học sinh nghèo khiến nhiều người có cái
nhìn tổng quan hơn về tác động của các yếu tố
ngoài trường học đến khả năng thích nghi của
một đứa trẻ. Chẳng còn quá sớm để đặt những
câu hỏi về cách thức cải thiện trường học trong
tương lai. Những trải nghiệm chúng ta có được
qua đại dịch có lẽ sẽ củng cố quan điểm “các
trường cần nâng cao khả năng thích ứng và phục
hồi của trẻ nhằm giúp chúng ứng phó với thay
đổi, thậm chí là những cú sốc” của một số nhà
cải cách giáo dục. Andreas Schleicher của OECD
chia sẻ, những học sinh trước đại dịch được giáo
viên chăm sóc nhiều nhất cũng chính là nhóm
chật vật nhất khi học trực tuyến. Ông cho rằng
trường học cần giúp trẻ rèn luyện tính tự lập để
chuẩn bị cho một tương lai khi sự “chen chân”
của công nghệ bắt buộc nhiều ngành nghề phải
liên tục thích nghi và đổi mới.
Ông Schleicher cho rằng cải tổ trường học phù
hợp với các nhu cầu khác nhau của trẻ là việc
làm cần thiết nhằm thu hẹp khoảng cách thành
tích giữa các học sinh. “Chúng ta áp dụng duy
nhất một mô hình dạy học cho mọi đứa trẻ… có gì
đáng ngạc nhiên lắm hay sao khi kết quả học tập
rốt cuộc cũng chỉ là một trong những tấm gương
phản ánh hoàn cảnh xã hội của chúng chứ?”
Ông cũng khẳng định rằng tại nhiều trường, “hệ
thống phân loại cũng chẳng hề được xây dựng
với mục đích thúc đẩy sự phát triển cá nhân của
học sinh.” Paul Reville thuộc Đại học Harvard,
một trong số những người cho rằng trường học
phải loại bỏ “mô hình nhà máy” truyền thống mà
ở đó, tất cả các em đều theo học một chương
trình trong một khoảng thời gian quy định y hệt
nhau và chuyển đổi sang “mô hình y tế” - nơi hỗ
trợ và thời gian nhận “dịch vụ” được cung cấp và
quy định tùy theo nhu cầu của từng em. Mô hình
này bao gồm cả cách giải quyết các vấn đề ngoài
trường học đã, đang và có thể sẽ làm khó học
sinh.
Trước đại dịch, một số nhỏ nhưng bắt đầu gia
tăng các trường học tại Mỹ loại bỏ các cấu trúc
truyền thống, thay vào đó, áp dụng cơ cấu “đa
cấp” kết hợp trẻ thuộc 2 hoặc 3 nhóm tuổi khác
nhau. Theo cơ cấu cũ, học sinh lên lớp đều mỗi
năm. Kể cả khi tiến độ một vài môn của của các
em không theo kịp tiến độ yêu cầu, hiếm có em
nào phải ở lại lớp. Các hệ thống linh hoạt hơn
hướng đến việc tạo cơ hội cho các học sinh đang
“bí” ở một hay vài môn học nhiều thời gian, trợ
giúp thiết thực và tự do hơn để nhanh chóng “qua
ải” thành công. Covid-19 có lẽ mở ra nhiều trải
nghiệm như trên hơn trong trường hợp địa vị xã
hội mất đi vị trí vốn có của nó.
Những nỗ lực giúp học sinh lấy lại những kiến
thức đã mất chính là cơ hội đầu tiên để xây dựng
nền móng của một hệ thống giáo dục tân tiến
hơn. Chính phủ nhiều nước tin rằng gia sư cá
nhân hay theo nhóm nhỏ sẽ làm nên chuyện.
Các học sinh đang chật vật chắc sẽ hưởng lợi lớn
nếu mô hình gia sư đang được nhân rộng này trở
thành nền tảng cốt lõi của các hệ thống giáo dục.
Rồi tham vọng của bạn cũng sẽ tăng lên thôi
Sẽ không có sự hỗ trợ nào phát huy tác dụng nếu
các vấn đề hay khó khăn ngoài việc học thu hút
sự chú ý hoặc cản trở học sinh tới trường vẫn
chưa được giải quyết. Nỗ lực cùng trẻ vượt qua
khó khăn cần sự chung tay của không chỉ nhà
trường, cha mẹ mà còn cả của các tổ chức xã
hội. Các trường được khuyến khích xây dựng kế
hoạch hỗ trợ cho toàn bộ học sinh vượt qua giai
đoạn khó khăn không chỉ trong học tập mà còn
cả các vấn đề về cảm xúc và sức khỏe khi ở nhà
ví dụ như lập ra các ngân hàng thực phẩm, quần
áo, các dịch vụ tư vấn và chăm sóc sức khỏe tinh
thần hay kiểm tra thị lực với giá cả phải chăng.
Trong khi đó, các tổ chức xã hội hoặc cơ quan
liên quan có thể phối hợp gây quỹ, kêu gọi thêm
sự hỗ trợ từ đa dạng các nguồn lực.
“Những thay đổi nhỏ nơi trường học, suy cho
23
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
cùng, sẽ không hoàn toàn loại bỏ được các rào
cản ngăn trở học sinh tiến tới thành công”, Ed
Vainker, đồng sáng lập Children’s Hub chia sẻ.
Ông cho rằng, trường học chỉ là nơi thể hiện sự
đồng lòng trong việc kêu gọi sự hỗ trợ từ nhiều
nguồn của các tổ chức xã hội mà thôi.
Vậy còn công nghệ thì sao? Ông Reich thuộc Đại
học RMIT nghĩ rằng những trải nghiệm tồi tệ từ
dịch bệnh sẽ giúp chôn vùi những kỳ vọng phóng
đại từ lâu rằng công nghệ giáo dục có thể nhanh
chóng và hoàn toàn thay đổi giáo dục. Tuy vậy,
ông vẫn mong giáo viên sẽ được khuyến khích sử
dụng nó hiệu quả hơn.
Trước đại dịch, giáo viên nhận ra rằng tài liệu
phát cho học sinh trên lớp đầu giờ học hoàn toàn
có thể được truyền tải qua video gửi trước. Thay
đổi này hạn chế tối đa thời gian dành cho việc
giảng bài trên lớp của giáo viên, đồng thời, tối
đa hóa thời gian dành cho việc giúp đỡ học sinh
áp dụng kiến thức đã được học qua video. Cách
này đặc biệt hiệu quả với những học sinh tiếp
thu chậm. Nó cũng tạo điều kiện tiếp tục những
phân công lao động mới lạ một số trường học đã
đặt ra trong thời kỳ đại dịch, nơi một số giáo viên
đặc biệt ưa nhìn được giao nhiệm vụ sản xuất các
bài học video, trong khi những người khác nỗ lực
để giúp đỡ từng học sinh.
Rất nhiều trẻ em sẽ hưởng lợi nếu đại dịch khiến
người lớn nhận ra rằng không phải tất cả trẻ em
đều phù hợp với mô hình giáo dục một-cho-tất-
cả. Cùng lúc, nó hướng sự chú ý và kêu gọi được
nhiều hơn đầu tư vào các mô hình thay thế khác.
Hãy làm theo cách của bạn
Khi lịch trình làm việc của cha mẹ linh hoạt hơn,
nhu cầu áp dụng các mô hình giáo dục mới có lẽ
sẽ tăng.
Noam Gerstein, người sáng lập người Israeli của
Bina, một trường tiểu học trực tuyến với trụ sở
chính ở Berlin, nghĩ rằng một số tập đoàn có thể
sẽ bị thuyết phục chi trả cho việc kết nối với các
lớp học trực tuyến của nhân viên. Đó là lợi ích của
nhân viên mà. Cô dự kiến sẽ tạo ra một số không
gian cho lũ trẻ học trực tuyến trong tòa nhà. Cô
nghĩ phụ huynh chắc sẽ vui khi thấy con mình
trong giờ làm việc hay trong bữa trưa chẳng hạn.
Có rất nhiều lý do để bi quan về tương lai phục
hồi hoàn toàn của trường học sau đại dịch. Giáo
viên đang kiệt sức. Quan hệ giữa các hiệp hội và
quan chức đang xấu đi. Các chính phủ thắt lưng
buộc bụng. Còn phụ huynh thì vẫn bận bịu làm
việc và trông chừng lũ trẻ toàn thời gian trong khi
ngành giáo dục đang tuyệt vọng giao phó toàn bộ
học sinh của mình cho nhiều bên khác nhau. Tuy
vậy, việc chuyển đổi tức thì từ học trực tiếp sang
trực tuyến cũng cho thấy một điều rằng trường
học đủ khả năng đương đầu với những thay đổi to
lớn. Cứ nghĩ rằng sẽ đáng sợ, vậy mà trên thực
tế, cải cách dường như lại nhẹ nhàng và dễ dàng
hơn tưởng tượng.
24 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
Sally Weale1 | Ngô Thị Thanh Tùngdịch
Báocáokhẳngđịnhrằng,nơisinhsốngcủanhững
đứa trẻ sinh năm 2000 là một yếu tố tiên đoán
mạnhmẽ hơn vềsựthànhcôngtronghọctậpcủa
chúngsovớinhữngđứatrẻsinhnăm1970.
Theo một nghiên cứu mới đây, rất nhiều trẻ em
không đạt thành tích cao ở trường do sự bất bình
đẳng trong giáo dục giữa các vùng ngày càng gia
tăng, và điều này có tác động xấu đến các cơ hội
trong cuộc sống của chúng.
Một báo cáo của Quỹ Thị trường Xã hội (SMF) -
một tổ chức tư vấn giải pháp độc lập (thinktank)
- cho biết sự bất bình đẳng về địa lý trong kết quả
giáo dục đã tăng lên trong 30 năm qua. Trong
khi 70% học sinh ở London hiện đạt được 5 điểm
A*-C (đạt từ C trở lên) của GCSE (Chứng chỉ Giáo
1 Nguồn:https://www.theguardian.com/educa-
tion/2016/jan/12/geographical-inequality-education-grow-
ing-study-nds
dục phổ thông) thì tỷ lệ này ở Yorkshire và Hum-
ber chỉ là 63%.
Sự chênh lệch về kiến thức đã thể hiện rõ ở độ
tuổi 11, khi kết thúc tiểu học. Nghiên cứu khẳng
định, nơi sinh sống của những đứa trẻ sinh năm
2000 là một yếu tố dự báo mạnh mẽ hơn về sự
thành công trong học tập so với những đứa trẻ
sinh năm 1970.
Mức thu nhập của gia đình từ lâu đã được ghi
nhận là yếu tố chính ảnh hưởng đến kết quả học
tập. Các chính sách như chương trình ưu đãi dành
cho học sinh đã được đưa ra để hỗ trợ trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn có thêm kinh phí, nhưng các
chuyên gia giáo dục ngày càng lo ngại về sự khác
biệt giữa các khu vực.
Kết quả học tập phân theo vùng
Tỷ lệ đạt được điểm 5+ A*-C GCSE hoặc tương
đương, năm học 2013-2014
BẤT BÌNH ĐẲNG GIÁO DỤC THEO KHU VỰC ĐỊA LÝ
Ở ANH QUỐC GIA TĂNG MẠNH SAU 30 NĂM
25
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
Nguồn: Department for Education
Mặc dù London đã có sự cải thiện đáng kể về điểm
GCSE trong những năm gần đây, một phần nhờ
các sáng kiến về chính sách như London Chal-
lenge và sự đóng góp tích cực của đa dạng sắc
tộc ở thủ đô và các thành phố lớn khác, trẻ em
ở các vùng khác vẫn tiếp tục đạt kết quả không
như mong đợi.
Vào tháng trước, trưởng thanh tra các trường
học, Ngài Michael Wilshaw, đã nói về sự chia
rẽ giáo dục “cực kỳ có vấn đề” ở Anh, trẻ em ở
miền bắc và miền trung ít có khả năng hơn so với
các bạn ở miền Nam về cơ hội được học tại một
trường trung học tốt hoặc xuất sắc.
Báo cáo hàng năm của Ofsted về tình trạng các
trường học của quốc gia đã xác định 16 vùng
chính quyền địa phương hoạt động kém, ở các
nơi này học sinh đạt điểm GCSE thấp hơn trung
bình và tiến bộ ít hơn mức trung bình. Ngoài trừ
ba vùng ra thì vùng còn lại đều thuộc miền Bắc
và miền Trung.
Công bố báo cáo của SMF hôm thứ Ba, cựu phó
thủ tướng Nick Clegg cho biết: “Điều đang trở
nên rõ ràng hiện nay là sự bất bình đẳng trong
giáo dục có nhiều hình thức và quy mô. Không
phải chỉ có sự giàu
có của các bậc cha
mẹ có liên quan đến
việc kìm hãm một số
lượng lớn những đứa
trẻ thông minh mà
còn cả sự bất bình
đẳng về mã bưu điện.
Trẻ em lớn lên ở vùng
nào đó của đất nước
có ảnh hưởng thực sự
đến các cơ hội trong
cuộc sống của chúng
”.
Nghiên cứu của SMF đã phân tích năng lực của
trẻ em 11 tuổi qua ba thế hệ - những đứa trẻ
sinh năm 1958, 1970 và 2000 - thông qua các bài
kiểm tra suy luận dạng nói.
Clegg cho rằng: “Đối với nhóm nhỏ nhất - tức là
những học sinh đang học trung học hiện nay - có
sự khác biệt rõ rệt về thành tích ở các vùng khác
nhau. “Những người sống ở London, đông nam
và tây bắc có tỷ lệ điểm cao cao nhất. Trong khi
những người sống ở phía đông bắc, Yorkshire và
West Midlands có tỷ lệ điểm kém cao nhất.”
Cựu lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do bổ sung:
“Đó là một bản cáo trạng đáng thất vọng đối với
xã hội của chúng ta khi một đứa trẻ sinh ra ngày
nay ít có cơ hội nhận ra tiềm năng của chúng nếu
chúng được sinh ra ở một vùng nhất định của
đất nước. Đối với những người ở độ tuổi của tôi,
ý tưởng rằng thế hệ con cái của chúng ta có thể
là thế hệ đầu tiên không đạt được những kết quả
tốt như cha mẹ chúng là điều vô cùng lo lắng.
Nhưng đó là một thực tế đang diễn ra ở hàng
triệu bậc cha mẹ.”
Nghiên cứu của SMF cũng xem xét tác động của
thu nhập gia đình đối với kết quả học tập và báo
cáo chỉ ra rằng 40% trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn nhất được ăn miễn phí tại trường (FSM) đạt
26 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
được mức 5 A*-C GCSE, so với 70% những học
sinh thuộc các gia đình giàu có hơn và không
nhận các bữa ăn miễn phí.
Mặc dù khoảng cách về kiến thức giữa trẻ em
giàu và nghèo dường như đã được thu hẹp trong
thập kỷ qua bằng cách sử dụng thang đo của 5
mức tốt của GCSE, báo cáo cho thấy nếu việc đo
lường khắt khe hơn của chính phủ - thang đo 5
mức tốt của GCSE bao gồm tiếng Anh và toán -
được sử dụng thì “sự tiến bộ là không còn quan
sát được nữa ”.
Báo cáo cũng xem xét ảnh hưởng của sắc tộc và
phát hiện ra rằng hơn 85% học sinh Trung Quốc
đạt được 5 điểm tốt của GCSE so với 59% học
sinh da đen vùng Caribe. Báo cáo cũng nhấn
mạnh những lo ngại đã lan rộng về tình trạng
thành tích học tập kém của học sinh da trắng
- đặc biệt là những học sinh có hoàn cảnh khó
khăn - những học sinh đã “giảm từ thành tích
vượt trội xuống thành tích kém hơn trung bình
trong suốt ba thập kỷ”.
Đáp lại báo cáo này, Bộ Giáo dục cho biết các
cuộc cải cách giáo dục đã đạt được thêm 1,4
triệu trẻ em vào các trường tốt hoặc xuất sắc kể
từ năm 2010. Bộ Giáo dục (DfE) cũng tuyên bố
rằng khoảng cách về kiến thức giữa học sinh có
hoàn cảnh khó khăn và các bạn đồng trang lứa
đã giảm ở cả cấp tiểu học và trung học cơ sở.
“Tuy nhiên, chúng tôi nhận ra rằng còn nhiều
việc phải làm,” một phát ngôn viên của Bộ cho
biết. “Chúng tôi đang mở rộng các chương trình
Teach First và School Direct và khởi động chương
trình National Teaching Service, nghĩa là sẽ có
nhiều giáo viên tuyệt vời hơn trong các trường
học ở mọi nơi trên đất nước để chúng tôi có thể
mở rộng cơ hội cho mọi trẻ em và đảm bảo tất cả
các trường đều có thể tuyển dụng giáo viên mà
họ cần. Chương trình ưu đãi dành cho học sinh,
trị giá 2,5 tỷ bảng Anh năm nay, đang hỗ trợ rõ
rệt cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và giúp
đảm bảo mọi trẻ em, bất kể xuất thân của chúng,
đều có cơ hội phát huy hết tiềm năng của mình.”
Giám đốc SMF, ông Emran Mian cho biết: “Trong
khi thu nhập của cha mẹ vẫn rất quan trọng,
nghiên cứu mới này cho thấy rằng nơi bạn sống
đóng một vai trò lớn hơn trong việc quyết định
thành tích giáo dục.”
“Nghiên cứu mới của chúng tôi cũng chỉ ra rằng
câu chuyện xung quanh nguồn gốc dân tộc và
giáo dục đã trở nên phức tạp hơn nhiều. Trước
đây, trẻ em có nguồn gốc không phải là người
da trắng học kém hơn. Giờ đây, trẻ em từ một số
nhóm dân tộc, bao gồm cả trẻ em Trung Quốc
và Ấn Độ, học tốt hơn mức trung bình, trong khi
những nhóm khác - bao gồm cả trẻ em da đen
Caribbean và trẻ em da trắng nghèo - học kém
hơn. ”
Stephen Gorard, giáo sư giáo dục tại Đại học
Durham, cho biết nghiên cứu của SMF đã đúng
khi thu hút sự chú ý đến sự khác biệt trong kết
quả học tập giữa miền nam, miền trung và đông
bắc.
Ông nói: “Tuy nhiên, họ đã sai khi cho rằng sự
khác biệt này là do tác động của vùng miền chứ
không phải do nền tảng của học sinh. Cho dù họ
đưa ra các con số nhưng những con số đó không
nói lên rằng nền tảng học sinh không thể giải
thích sự khác biệt về thành tích. Tình trạng ng-
hèo đói nhìn chung là nghiêm trọng hơn ở vùng
đông bắc và trung du. Kết luận này đã không
được nhìn ra do số mẫu nhỏ và thiếu nhiều dữ
liệu của hai nhóm thế hệ.”
27
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
Conrad Hughes1
Vũ Như dịch
Lần theo những dấu vết xa xưa nhất, cách đây
ít nhất 5.000 năm, giáo dục chính quy - nghĩa là
một nền giáo dục tập trung vào đọc viết và làm
toán - vốn có tính chọn lọc cao. Các trường học
cho các linh mục Ai Cập cổ đại và trường học cho
các thầy thông giáo ở Sumeria chỉ mở cửa cho
con cái của các giáo sĩ hoặc các vị vua tương lai.
Sau này, những người giàu có sẽ thuê các gia sư
riêng, chẳng hạn như các Nhà ngụy biện (Soph-
ist) ở Athens (500 - 400 TCN). Các trường học
Hy Lạp cổ đại, chẳng hạn như Học viện Plato và
Trường học Aristotle, chỉ dạy cho một nhóm nhỏ
những cá nhân được cho là ưu tú. Giáo dục chính
quy được dành riêng cho trẻ em nam, những
người giàu có, có khả năng và đặc quyền.
1 Nguồn:https://theconversation.com/education-
and-inequality-in-2021-how-to-change-the-system-158470
Theo thời gian, ngay cả sau khi các xã hội học
tập bắt đầu phát triển, nó vẫn là một nền giáo
dục cho một số ít người chứ không phải cho tất
cả mọi người.
Vào những năm 1800, người da đen bị từ chối
tiếp cận với nền giáo dục chất lượng ở Hoa Kỳ. Ở
các thuộc địa châu Âu, giáo dục được sử dụng để
tước bỏ di sản văn hóa của người dân và khiến họ
phải sống trong một tương lai lao động chân tay.
Giáo dục luôn khó tiếp cận với phụ nữ hơn so với
nam giới. Thậm chí cho đến ngày nay, có tới hơn
130 triệu trẻ em gái vẫn chưa được đến trường2.
Mặc dù sự chênh lệch giữa trẻ em gái và trẻ em
trai ngày càng giảm, trẻ em gái vẫn đang ở vị trí
bất lợi hơn rất nhiều. Từ góc độ kinh tế - xã hội, ở
nhiều quốc gia, các trường tư thục tiếp tục phát
triển bên cạnh các trường học bắt buộc của nhà
nước, cung cấp một phong cách giáo dục khác,
2 Nguồn:https://www.unicef.org/education/girls-ed-
ucation
GIÁO DỤC VÀ SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG
TRONG NĂM 2021: LÀM THẾ NÀO ĐỂ
THAY ĐỔI HỆ THỐNG?
28 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
đôi khi học phí rất cao.
Ngày nay, tiến độ đạt được ước mơ được phổ
cập giáo dục còn chậm. Giáo dục cho tất cả mọi
người của UNESCO và Mục tiêu phát triển bền
vững số 4 của Liên hợp quốc, nhằm “đảm bảo
chất lượng giáo dục hòa nhập và bình đẳng cũng
như thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả
mọi người”, vẫn chưa thành hiện thực: khoảng
260 triệu trẻ em vẫn chưa được đến trường3. Đại
dịch COVID-19 đã khiến tình hình trở nên tồi tệ
hơn, với khoảng 500 triệu học sinh không thể
tiếp cận được việc học từ xa4. Ước tính có hơn
200 triệu trẻ em sẽ vẫn không được đến trường
vào năm 2030.
Trong nghiên cứu của tôi về “Giáo dục và chủ ng-
hĩa tinh hoa”5, câu hỏi bao quát xuyên suốt cuốn
sách là về tương lai của nền giáo dục trên toàn
thế giới: Triển vọng cho tương lai là gì? Có phải
chúng ta đang đối mặt với một thực trạng mà số
đông ngày càng bần cùng và chỉ có một nhóm
thiểu số lại ngày càng trở nên quyền lực và giàu
có hơn?
Một số con đường có thể mở ra. Một mặt, các cơ
sở giáo dục chọn lọc có thể trở nên khó tiếp cận
hơn trong khi giáo dục tư thục vượt xa các tiêu
chuẩn quốc gia. Mặt khác, có những thay đổi có
thể làm cho giáo dục trở nên dễ tiếp cận hơn như:
học bổng, giáo dục tư nhân rẻ hơn, hệ thống nhà
nước mạnh mẽ hơn và cải cách hệ thống kiểm
tra/đánh giá.
Triển vọng cho tương lai
Các chương trình học bổng: Những chương trình
này cho phép những người giỏi nhất và nghèo
nhất được tiếp cận với các hệ sinh thái học tập
3 Nguồn:http://uis.unesco.org/en/topic/out-school-
children-and-youth
4 Nguồn:https://data.unicef.org/resources/re-
mote-learning-reachability-factsheet/
5 Nguồn:https://www.routledge.com/Educa-
tion-and-Elitism-Challenges-and-Opportunities/Hughes/p/
book/9780367527884
đang biến đổi. Tuy nhiên, điều này góp phần làm
chảy máu chất xám và không phát triển ngành
giáo dục địa phương, đặc biệt là ở châu Phi.
Giáo dục tư nhân rẻ hơn: Số trường tư thục dễ
tiếp cận ngày càng tăng lên. Điều này cho phép
nhiều trẻ em được tiếp cận một số giá trị riêng
biệt của các hệ thống giáo dục tư nhân - chương
trình giảng dạy linh hoạt hơn, sĩ số lớp học nhỏ
hơn, cá nhân hóa nhiều hơn. Tuy nhiên, có những
báo cáo cho rằng điều này đang làm gia tăng
khoảng cách xã hội, bởi hệ thống giáo dục công
lại không phát triển đủ để có thể bắt kịp chất
lượng của giáo dục tư.
Hệ thống nhà nước mạnh mẽ hơn: UNESCO ước
tính sẽ tiêu tốn tổng cộng 340 tỷ đô la Mỹ mỗi
năm để đạt được phổ cập giáo dục mầm non, tiểu
học và trung học ở các quốc gia có thu nhập thấp
và trung bình thấp vào năm 2030. Mức chi tiêu
cho giáo dục tiểu học có chất lượng ở một quốc
gia thu nhập thấp trung bình hàng năm trên mỗi
học sinh được dự đoán là 197 USD vào năm 2030.
Điều này tạo ra khoảng cách ước tính hàng năm
là 39 tỷ USD từ năm 2015 đến năm 2030. Việc tài
trợ cho khoảng cách này kêu gọi hành động từ
các nhà tài trợ khu vực tư nhân, các nhà từ thiện
và các học viện tài chính quốc tế.
Học trực tuyến: COVID-19 khiến tình trạng bất
bình đẳng trở nên rõ ràng hơn. Tuy nhiên, sự gia
tăng chóng mặt của học trực tuyến trên toàn
thế giới cũng là một hiện tượng đáng chú ý. Nếu
được điều phối bởi những người điều hành giỏi về
mặt học thuật, điều này sẽ mở ra tiềm năng lớn
để giáo dục trở nên dễ tiếp cận hơn. Tuy nhiên,
có một vấn đề là: hướng dẫn trực tuyến thiếu đi
tính cảm xúc mà học trực tiếp tạo ra được. Do
đó, mức độ động lực và sự kiên trì có xu hướng
thấp trong các môi trường học tập trực tuyến. Và
quan trọng là ở nhiều quốc gia, nhiều học sinh
vẫn không có khả năng truy cập Internet.
29
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
Một chặng đường phía trước: cải tổ hệ thống
Có lẽ phong trào thực chất nhất để giảm bớt bất
bình đẳng sẽ không phải là tăng tốc tiếp cận với
một hệ thống đổ nát mà là cải tổ chính hệ thống
đó.
Đã đến lúc phải nhìn xa hơn những chỉ số học
thuật hẹp như cách duy nhất để mô tả năng lực
của những người trẻ tuổi. Toàn bộ hệ thống giáo
dục ở các trường trung học, ở mọi quốc gia, cần
phải thay đổi đáng kể. Các mô hình đánh giá
nên công nhận và nuôi dưỡng nhiều năng lực đa
dạng và đa dạng hơn, đặc biệt là thái độ, kỹ năng
và các loại kiến thức ngoài những kiến thức tập
trung được nền kinh tế - xã hội ưa chuộng, chẳng
hạn như đọc viết và làm toán. Cho đến khi các
trường đại học và nhà tuyển dụng nhìn xa hơn
các thước đo truyền thống, sẽ rất khó để phá vỡ
sự ủng hộ, đối với phần lớn các ứng viên thuộc
tầng lớp trung lưu, xã hội và sắc tộc.
Để thực sự thoát khỏi một thiên niên kỷ của chủ
nghĩa tinh hoa, các hệ thống chọn lọc, phương
pháp tiếp cận cần phải chuyển từ học thuật thuần
túy sang hệ thống tín chỉ ghi lại nhiều câu chuyện
hơn là chỉ về học tập. Hệ thống tín chỉ mới này
nên được coi là giấy thông hành, ở đó sinh viên
đã được đóng dấu với các năng lực đa dạng khác
nhau như học tập suốt đời hay khả năng tự chủ
mà họ đã phát triển trong suốt quá trình học của
mình (trong trường học), cho phép họ được công
nhận trên nhiều phương diện.
Một liên minh các trường học từ khắp các châu
lục đang làm việc trong dự án này, và cùng nhau
thảo luận để đi đến kết luận chung. Điều này có
nghĩa là đồng thiết kế một bảng điểm tương xứng
với cuộc sống để cho phép nhiều trẻ em tiếp cận
hơn dựa trên các tiêu chí mở rộng hơn.
30 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
Youki Terada, Stephen Merrill, Sarah Gonser1
LISA dịch
Từviệctáiđịnhnghĩakháiniệmcủachúngtavề
một“trườnghọctốt”đếnviệckhaitháctốtnguồn
lựcgiáoviênchuyênnghiệp,đâylàdanhsách
nhữngnghiêncứutrongnăm2021màbạnkhông
thểbỏqua
2021 là một năm vất vả và chưa từng có đối với
các thầy cô giáo và lãnh đạo nhà trường. Chúng
tôi đã xem qua hàng trăm nghiên cứu để lần
theo dấu vết của những gì đã xảy ra vào một năm
không thể quên này. Các nghiên cứu đã tiết lộ
bức chân dung phức tạp về một năm mệt mỏi,
trong đó các vấn đề về sức khỏe thể chất cùng
tinh thần vẫn dai dẳng ảnh hưởng đến hàng triệu
các nhà giáo dục. Trong khi đó, nhiều cuộc tranh
1 https://www.edutopia.org/article/10-most-signi-
cant-education-studies-2021
10
NGHIÊN CỨU
GIÁO DỤC
CÓ Ý NGHĨA
NHẤT NĂM
2021
31
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
luận cũ vẫn tiếp tục: Liệu tài liệu giấy có đánh
bại tài liệu kỹ thuật số? Học tập dựa trên dự án
có hiệu quả như học tập trực tiếp không? Và định
nghĩa của một “trường học tốt” là gì?
Nhiều nghiên cứu khác cũng đã thu hút sự chú ý
của công chúng, một vài trong số chúng thậm chí
còn trở thành tiêu điểm. Các nhà nghiên cứu từ
Đại học Chicago và Đại học Columbia đã sử dụng
trí thông minh nhân tạo trên khoảng 1,130 cuốn
sách dành cho trẻ em từng đoạt giải thưởng để
tìm kiếm các thành kiến vô hình trong đó (Tiết lộ
cho bạn một chút là họ đã tìm thấy một số thành
kiến). Một nghiên cứu khác đã tiết lộ lý do tại sao
nhiều phụ huynh lưỡng lự không muốn ủng hộ
việc học về xã hội và cảm xúc trong trường học -
và cung cấp những gợi ý về cách mà các nhà giáo
dục có thể lật ngược tình huống.
1. Những bậc phụ huynh cảm thấy gì về SEL (và
làm thế nào để thay đổi những suy nghĩ đó)
Khi các nhà nghiên cứu tại Viện Fordham yêu cầu
phụ huynh xếp hạng các cụm từ liên quan đến
việc học tập về xã hội và cảm xúc, dường như họ
chẳng nghĩ ra được từ gì cả.2 Thuật ngữ “học tập
về cảm xúc - xã hội” (social-emotional learning
- SEL) không được nhiều người biết tới; hầu hết
cha mẹ không muốn con cái tập trung vào nó.
Nhưng khi các nhà nghiên cứu thêm một cụm từ
đơn giản, biến nó thành “học tập về cảm xúc - xã
hội và học thuật”, ngay lập tức, chương trình học
đó trở thành á quân trong bảng xếp hạng mức độ
phổ biến này.
Điều gì khiến các bậc phụ huynh suy nghĩ như
vậy?
Các nhà nghiên cứu cho rằng, có những thuật ngữ
liên quan đến SEL khiến họ cảm thấy khó chịu
hoặc lo lắng. Các cụm từ như “kỹ năng mềm”,
“tư duy phát triển” làm họ cảm thấy thật “viển
vông” và không hề mang tính học thuật. Đối với
2 Chitiếtnghiêncứu:https://sel.fordhaminstitute.
org/
một số người, loại ngôn ngữ này lại là “mật mã
truyền đạt sự tự do”.
Nhưng nghiên cứu cho thấy, các bậc cha mẹ có
thể cần những lời trấn an đơn giản nhất để vượt
qua những khủng hoảng về chính trị. Việc loại bỏ
biệt ngữ, tập trung vào các cụm từ hữu ích như
“kỹ năng sống” và liên tục gắn SEL với sự tiến bộ
học tập sẽ giúp phụ huynh cảm thấy thoải mái và
có vẻ như còn tiết kiệm được thời gian cho quá
trình học tập về xã hội và cảm xúc.
2. Bí mật trong kỹ thuật quản lý của giáo viên có
kinh nghiệm
Dưới bàn tay của những nhà giáo giàu kinh
nghiệm, việc quản lý lớp học gần như chẳng nặng
nề: Các kỹ thuật được thực hiện một cách tinh tế
ở hậu trường, học sinh bỗng có thói quen giữ trật
tự và nhiệt tình tham gia vào các nhiệm vụ học
tập nghiêm ngặt hệt như thể có ma thuật vậy.
Theo nghiên cứu3, đó chẳng phải là một sự tình
cờ đầy may mắn. Trong khi các hành vi nổi loạn
vẫn không thể hoàn toàn loại bỏ trong môi trường
trường học, các giáo viên dày dặn kinh nghiệm
vẫn có thể gieo mầm nơi lớp học các chiến lược
xây dựng mối quan hệ giúp chủ động ngăn chặn
hành vi sai trái trước khi nó bùng phát. Họ cũng
tiếp cận kỷ luật một cách tổng thể hơn so với
những đồng nghiệp ít kinh nghiệm, họ biết cách
định hình lại các hành vi không đúng mực bằng
việc nhìn nhận nó trong bối cảnh rộng hơn, như
là làm sao để biến những bài học trở nên hấp
dẫn hơn hay trong cách mà họ truyền đạt những
kỳ vọng một cách rõ ràng.
Tập trung vào các biến động ngầm ẩn của các
hành vi thay vì gián đoạn xảy ra trên bề mặt -
có nghĩa là các giáo viên chuyên nghiệp cũng
thường nhìn một vấn đề theo những cách khác
nhau vào những thời điểm khác nhau. Thay vì
3 Chitiếtnghiêncứu:https://www.sciencedirect.
com/science/article/abs/pii/S0742051X20314347?via%3Di-
hub
32 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
chỉ tập trung vào một vi phạm nhỏ trong phép xã
giao (một sai lầm mà giáo viên mới vào nghề rất
hay gặp phải), họ có xu hướng nhìn nhận xa hơn,
đặt câu hỏi về nguồn gốc có thể dẫn đến hành vi
sai trái đó, khéo léo điều hướng hành vi học sinh
giữa kỷ luật và quyền tự chủ của các em và chọn
cách giải quyết hành vi đó một cách riêng tư nhất
có thể.
3. Sức mạnh đáng ngạc nhiên của việc kiểm tra
trước khi học (pretesting)
Yêu cầu học sinh làm bài kiểm tra trước khi nội
dung đó được dạy nghe có vẻ rất lãng phí thời
gian. Suy cho cùng, bài kiểm tra đó cũng chỉ có
thể làm dựa trên phỏng đoán của các em mà
thôi.
Nhưng nghiên cứu mới nhất4 lại kết luận rằng,
phương pháp nêu trên (gọi là pretesting) thực
sự đem lại hiệu quả nhiều hơn so với các chiến
lược học tập điển hình khác. Một điều đáng ngạc
nhiên là nó thậm chí còn vượt qua cả phương
pháp làm các bài kiểm tra thông thường - tức là
kiểm tra sau khi đã học các nội dung nhất định -
một phương pháp đã được công nhận bởi các nhà
khoa học nhận thức và giáo dục. Trong nghiên
cứu, những học sinh làm bài kiểm tra trước khi
học có kết quả vượt trội hơn so với các bạn khác
học theo cách truyền thống đến 49% và hơn 27%
so với những học sinh học theo cách ngược lại.
Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng, “việc
tạo ra lỗi” là chìa khóa thành công của phương
pháp này. Nó thúc đẩy sự tò mò và khiến học sinh
phải “tìm kiếm câu trả lời chính xác” khi chúng
được bắt đầu tiếp cận nội dung học. Thêm vào
đó, một nghiên cứu năm 20185 cho thấy, việc đưa
ra các phỏng đoán mang tính giáo dục có thể
giúp học sinh kết nối kiến thức nền tảng với tài
liệu mới.
4 Chitiếtnghiêncứu:https://psycnet.apa.org/
doi/10.1037/xap0000345
5 Chitiếtnghiêncứu:https://www.tandfonline.com/
doi/abs/10.1080/09658211.2018.1464189?journalCode=p-
mem20
Việc học tập sẽ lâu bền hơn khi học sinh nỗ lực
sửa chữa những quan niệm sai lầm. Nghiên cứu
cho thấy rằng, nhắc nhở lặp lại về sai lầm là một
cột mốc quan trọng trên con đường học tập.
4. Đối mặt với những ngộ nhận về học sinh nhập
cư
Học sinh nhập cư thường được nhắc đến như
những người gây ra các ảnh hưởng tiêu cực tới
hệ thống giáo dục, nhưng nghiên cứu mới nhất6
đang phá tan định kiến đó.
Trong một nghiên cứu năm 2021, các nhà nghiên
cứu đã phân tích hơn 1.3 triệu hồ sơ học tập
và khai sinh của học sinh tại các cộng đồng ở
Florida. Kết luận được đưa ra là học sinh nhập
cư thực sự có “tác động tích cực đến thành tích
học tập của học sinh bản địa”, điểm kiểm tra
được nâng cao khi số lượng học sinh nhập cư
đến trường tăng lên. Những lợi ích này đặc biệt
mạnh mẽ đối với học sinh trong gia đình có thu
nhập thấp.
Trong khi những người nhập cư ban đầu “phải
đối mặt với những thách thức trong quá trình hòa
nhập có thể cần đến sự bổ sung các nguồn lực ở
trường học”, các nhà nghiên cứu kết luận rằng,
sự chăm chỉ và khả năng phục hồi có thể tạo
điều kiện giúp họ trở nên xuất sắc, và do đó, “gây
những ảnh hưởng tích cực đến thái độ và hành vi
của những học sinh sinh ra tại Hoa Kỳ”. Những
theo giáo viên Larry Ferlazzo, những cải tiến này
có thể xuất phát từ một thực tế là việc có những
học sinh học tiếng anh trong các lớp học sẽ cải
thiện khả năng su phạm, thúc đẩy giáo viên xem
xét “các vấn đề như kiến thức trước khi vào bài
học, giáo trình và tối đa hóa khả năng tiếp cận.”
6 Chitiếtnghiêncứu:https://www.nber.org/papers/
w28596
33
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
5. Một bức tranh đầy đủ hơn về một “ngôi trường
tốt”
Các nhà nghiên cứu khẳng định trong một nghiên
cứu được công bố vào cuối năm 20207 rằng, đã
đến lúc suy nghĩ lại định nghĩa của chúng ta về
một “ngôi trường tốt”. Bởi vì những tiêu chí đánh
giá thông thường như điểm kiểm tra thường
cung cấp một bức tranh không đầy đủ và dễ gây
hiểu lầm.
Nghiên cứu đã xem xét hơn 150.000 học sinh lớp
9 theo học tại các trường công lập ở Chicago và
kết luận rằng, việc nhấn mạnh các khía cạnh xã
hội và cảm xúc của việc học (ví dụ như xây dựng
mối quan hệ, cảm giác thân thuộc và khả năng
phục hồi) giúp cải thiện tỷ lệ tốt nghiệp trung học
và trúng tuyển đại học đối với cả học sinh ở cả gia
đình có thu nhập cao và thấp, vượt xa các trường
tập trung chủ yếu vào việc cải thiện điểm thi.
Trưởng nhóm nghiên cứu C. Kirabo Jackson nói
trong một cuộc phỏng vấn với Edutopia: “Các
trường học quan tâm tới thúc đẩy sự phát triển
cảm xúc xã hội thực sự có tác động tích cực lớn
đến trẻ em. Và những tác động này đặc biệt lớn
đối với nhóm học sinh dễ bị tổn thương, những
người thường là không có kết quả tốt trong hệ
thống giáo dục.”
Các phát hiện này củng cố tầm quan trọng của
phương pháp tiếp cận toàn diện để đo lường sự
tiến bộ của học sinh, đồng thời là lời nhắc nhở
rằng: trường học - và giáo viên - có thể ảnh
hưởng đến học sinh theo những cách khó có
thể đo lường được và có thể chỉ thành hiện thực
trong tương lai.
6. Dạy chính là học
Một trong những cách tốt nhất để học một khái
niệm là dạy nó cho người khác. Nhưng bạn có
thực sự phải đưa mình vào vai trò của một nhà
7 Chitiếtnghiêncứu:https://www.nber.org/papers/
w28194
giáo hay chỉ cần có một kỳvọngvềviệcdạyhọclà
đã đủ để mang lại hiệu quả tương tự rồi?
Trong một nghiên cứu năm 20218, các nhà nghiên
cứu chia học sinh ra làm hai nhóm và cho mỗi
nhóm một đoạn tài liệu khoa học về hiệu ứng
Doppler - một hiện tượng liên quan đến sóng
âm thanh và ánh sáng, giải thích sự thay đổi dần
dần về âm sắc và cao độ, ví dụ như khi một chiếc
ô tô lao vào từ một khoảng cách xa. Một nhóm
sẽ nghiên cứu văn bản để chuẩn bị cho một bài
kiểm tra, còn nhóm còn lại cho biết rằng họ phải
giảng lại kiến thức này cho những học sinh khác.
Các nhà nghiên cứu không bao giờ thực hiện nửa
sau của nghiên cứu này vì học sinh có đọc các tài
liệu nhưng lại chưa bao giờ giảng kiến thức đó
cho ai khác. Tất cả những người tham gia sau đó
đã được kiểm tra khả năng nhớ lại những gì họ
đã học được về hiệu ứng Doppler và khả năng rút
ra những kết luận mở rộng hơn từ bài học.
Kết quả là gì? Những học sinh trong nhóm được
đưa ra yêu cầu giảng dạy cho người khác có kết
quả vượt trội hơn so với những người bạn còn lại
cả về thời gian và độ hiểu, đạt điểm cao hơn 9%
trong bài kiểm tra nhắc lại sau đó 1 tuần và cao
hơn 24% về khả năng suy luận. Nghiên cứu cho
thấy, việc yêu cầu học sinh chuẩn bị để giảng giải
lại một kiến thức nào đó - hoặc khuyến khích các
em nghĩ “liệu mình có thể dạy lại điều này cho
người khác không?” - có thể làm thay đổi đáng
kể con đường học tập của các em.
7. Những thành kiến đáng lo ngại ẩn trong
sách thiếu nhi
Theo một nghiên cứu mới9, một vài cuốn sách
nổi tiếng dành cho trẻ em được đánh giá cao như
Caldecott và Newbery liên tục miêu tả các nhân
vật da đen, Châu Á và Tây Ban Nha với làn da
sáng hơn.
8 Chitiếtnghiêncứu:https://psycnet.apa.org/doi-
Landing?doi=10.1037%2Fedu0000657
9 Chitiếtnghiêncứu:https://www.edworkingpapers.
com/sites/default/les/ai21-462.pdf
34 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
Bằng cách sử dụng trí thông minh nhân tạo,
các nhà nghiên cứu đã xem xét 1.130 cuốn sách
dành cho trẻ em được viết trong thế kỷ trước và
so sánh hai bộ sách: một bộ gồm những cuốn
sách nổi tiếng đã giành được các giải thưởng văn
học lớn và bộ còn lại thì đạt thành tựu ở những
giải thưởng tư nhân. Phần mềm đã phân tích dữ
liệu về màu da, chủng tộc, tuổi tác và giới tính có
trong các tác phẩm.
Phát hiện được công bố là: Trong khi nhiều nhân
vật có màu da sẫm hơn bắt đầu xuất hiện theo
thời gian thì những cuốn sách phổ biến nhất (là
những cuốn sách thường xuyên được mượn nhiều
nhất ở thư viện và được bày nhiều nhất ở giá sách
trong lớp học) lại vẫn miêu tả những người da
màu với một làn da sáng hơn. Hơn nữa, khi các
nhân vật trưởng thành càng “có đạo đức và có vị
thế xã hội được coi trọng” thì màu da của họ được
miêu tả càng sáng - tác giả chính của nghiên cứu
Anjali Aduki nói với The 74 như vậy khi một số
cuốn sách chuyển đổi “nước da màu socola của
Martin Luther King Jr. thành màu nâu sáng hoặc
màu be”. Trong khi đó, các nhân vật nữ thường
chỉ được nhắc đến một cách thoáng qua.
Các nhà nghiên cứu đã kết luận: Các đại diện văn
hóa là sự phản ánh các giá trị của chúng ta, “do
đó, sự bất bình đẳng trong cách thể hiện sẽ tạo
thành một tuyên bố rõ ràng về sự bất bình đẳng
giá trị.”
8. Chiến tranh không hồi kết giữa tài liệu “cứng
và mềm”
Cuộc tranh cãi diễn ra như thế này: Màn hình
kỹ thuật số biến việc đọc thành một nhiệm vụ
lạnh lùng và vô cảm; chúng tốt cho việc thu thập
thông tin và chỉ có vậy. Trong khi đó, những cuốn
sách “thực” có sức nặng và có thể “cầm nắm”
khiến chúng trở nên gần gũi, mê hoặc và không
thể thay thế được.
Những các nhà nghiên cứu thường tìm thấy
những bằng chứng yếu ớt hoặc không rõ ràng
về tính ưu việt của việc đọc trên giấy. Trong khi
một nghiên cứu gần đây10 kết luận rằng, sách
giấy mang lại khả năng hiểu tốt hơn so với sách
điện tử trong bối cảnh nhiều công cụ kỹ thuật số
đã bị loại bỏ, nhưng hệ số tác động (effect size)
của nó thì không lớn. Một phân tích tổng hợp11
năm 2021 càng làm vấn đề này trở nên rối ren
hơn: Khi sách kỹ thuật số và sách giấy “gần như
giống nhau”, trẻ em sẽ hiểu phiên bản sách giấy
dễ dàng hơn rất nhiều - nhưng khi những cải tiến
như chuyển động và âm thanh “nhắm vào nội
dung cốt truyện” thì sách điện tử lại có lợi thế.
Sự hoài niệm luôn là một sức mạnh mà bất cứ
một công nghệ mới nào cũng đều phải đương
đầu. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy việc viết
bằng bút và giấy giúp cho việc học có hiệu quả
cao hơn là đánh máy. Nhưng các định dạng sách
kỹ thuật số mới được tải sẵn với các công cụ tra
cứu mạnh mẽ cho phép người đọc chú thích, tra
cứu từ, trả lời các câu hỏi và chia sẻ suy nghĩ của
họ với những người đọc khác.
Chúng ta có thể chưa sẵn sàng để thừa nhận
điều đó, nhưng đây chính xác là những loại hoạt
động thúc đẩy sự tương tác sâu hơn và nâng cao
khả năng hiểu, để lại cho chúng ta những ký ức
lâu dài về những gì chúng ta đã đọc. Bất chấp
nhiều phản đối, tương lai của sách điện tử sẽ vẫn
đầy hứa hẹn.
9. Học tập dựa trên dự án
Nhiều lớp học ngày nay vẫn không hề thay đổi so
với 100 năm trước đây, khi học sinh chỉ cần chuẩn
bị cho các công việc trong nhà máy. Nhưng thế
giới thì vẫn tiếp tục xoay vần: Những nghề nghiệp
hiện đại ngày càng đòi hỏi những kỹ năng phức
tạp hơn như kỹ năng hợp tác, giải quyết vấn đề
10 Chitiếtnghiêncứu:https://doi.org/10.1111/1467-
9817.12269
11 Chitiếtnghiêncứu:://journals.sagepub.com/
doi/10.3102/0034654321998074
35
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
nâng cao hay khả năng sáng tạo. Và những kỹ
năng này khó có thể dạy được trong các lớp học
truyền thống khi thời gian và không gian để học
sinh phát triển chúng đều vô cùng hạn chế.
Học tập dựa trên dự án được xem như là một giải
pháp lý tưởng, nhưng các nhà phê bình cho rằng
phương pháp này đặt quá nhiều trách nhiệm lên
những người mới học và bỏ qua bằng chứng về
hiệu quả của việc giảng dạy trực tiếp, cuối cùng
làm suy yếu sự chảy trôi của chủ đề cần học.
Những người ủng hộ học tập dựa trên dự án lập
luận lại rằng việc học tập lấy học sinh làm trung
tâm và hướng dẫn trực tiếp vẫn có thể và nên
cùng tồn tại trong các lớp học.
Giờ đây, hai nghiên cứu quy mô lớn12 trên hơn
6000 học sinh tại 114 trường đa dạng trên toàn
nước Mỹ đã cung cấp bằng chứng cho thấy
phương pháp học tập dựa trên dự án nếu có cấu
trúc tốt thì có thể thúc đẩy việc học tập cho nhiều
học sinh.
Trong các nghiên cứu được tài trợ bởi Lucas
Education Research - một bộ phận của Edutopia,
học sinh tiểu học và trung học tham gia vào các
dự án đầy thử thách yêu cầu các em phải thiết kế
hệ thống dẫn nước cho các trang trại địa phương
hoặc tạo đồ chơi bằng cách đồ vật gia dụng đơn
giản để tìm hiểu về trọng lực, lựa ma sát và lực
vật lý nói chung. Thử nghiệm sau đó cho thấy
những kết quả học tập đáng chú ý, vượt xa những
kết quả mà học sinh trong các lớp học truyền
thống đã trải qua. Những kết quả đó dường như
nâng cao tất cả các mặt còn lại, tồn tại qua các
cấp độ kinh tế xã hội, chủng tộc và khả năng đọc
hiểu.
12 Chitiếthainghiêncứu:https://www.edutopia.org/
article/new-research-makes-powerful-case-pbl
10. Một năm khó khăn cho giáo viên
Đại dịch COVID-19 đã mang tới một thời kỳ đen
tối với những nhà giáo dục.
Trung tâm Đổi mới Giáo dục Công viết trong một
báo cáo vào tháng 1 năm 2021: Khối lượng công
việc trung bình của một giáo viên “tăng đột biến
vào mùa xuân năm ngoái” và vẫn phải duy trì
lượng lớn công việc đó cho tới hiện tại. Vào mùa
thu, một nghiên cứu của RAND13 đã ghi nhận một
sự thay đổi đáng kinh ngạc trong thói quen làm
việc của nhà giáo: 24% giáo viên báo cáo rằng họ
làm việc từ 56 giờ trở nên mỗi tuần, cao hơn rất
nhiều so với con số 5% được ghi nhận trước đại
dịch.
Vắc xin vốn được kỳ vọng là thuốc giải cho đại
dịch, nhưng khi nó xuất hiện, dường như lại
không mang đến sự thay đổi nào. Trong một cuộc
khảo sát vào tháng 4 năm 202114 được tiến hành
4 tháng sau khi lô vắc xin đầu tiên được sử dụng
ở New York, 92% giáo viên cho biết công việc của
họ vẫn căng thẳng hơn so với trước đại dịch, tăng
so với 81% trong một cuộc khảo sát trước đó.
Đây không chỉ là vấn đề của việc phải làm việc
trong thời gian quá dài. Khi xem xét kỹ, nghiên
cứu cho thấy hệ thống trường học không điều
chỉnh được những tiêu chuẩn cần đạt được khi
đại dịch ập đến. Dường như các trường học của
đang cố gắng duy trì nghĩa vụ giảng dạy kết hợp
và hy vọng về một ngày được mở cửa trở lại. Vào
tháng 6 năm 2020, trước khi nhiều trường học ở
Hoa Kỳ mở cửa lần nữa, chúng tôi đã đưa ra báo
cáo rằng dạy học kết học là một vấn đề mới nổi ở
nước ngoài và cảnh báo rằng nếu “mô hình này
hoạt động tốt trong bất bất kỳ thời điểm nào” thì
các trường học sẽ đều phải “nhận ra và tìm cách
giảm bớt khối lượng công việc cho giáo viên”.
13 Chitiếtnghiêncứu:https://www.rand.org/pubs/
external_publications/EP68439.html
14 Chitiếtkhảosát:https://www.edweek.org/teach-
ing-learning/teachers-are-more-stressed-out-than-ever-
even-amid-promising-developments-survey-shows/2021/05
36 Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
Gần 8 tháng sau, một nghiên cứu của RAND năm
202115 đã xác định phương pháp giảng dạy kết
hợp là nguyên nhân chính gây căng thẳng cho
giáo viên ở Hoa Kỳ, dễ dàng vượt qua các yếu tố
như sức khỏe không tốt của những người thân
thiết.
Nhu cầu đối với các giải pháp công nghệ ngày
càng gia tăng đặt giáo viên vào thế khó. Trong
một số nghiên cứu quan trọng vào năm 2021, các
nhà nghiên cứu kết luận rằng, giáo viên đang bị
dồn ép buộc phải áp dụng công nghệ mới mà
không có bất cứ “nguồn lực và thiết bị cần thiết
để sử dụng cho mục đích sư phạm.” Do đó, họ
phải dành hơn 20 giờ một tuần để điều chỉnh các
bài học sao cho việc giảng dạy trực tuyến được
trôi chảy. Chính vì thế, giáo viên dường như đang
trải qua sự xói mòn chưa từng có về ranh giới
giữa công việc và cuộc sống gia đình, dẫn đến
tâm lý “luôn bần bật” không bền vững. Khi mọi
thứ dường như chẳng thể tệ hơn được nữa, khi
tất cả đèn báo động đều nhấp nháy ánh đỏ, chính
phủ liên bang lại bắt đầu có kế hoạch tiến hành
lại các bài kiểm tra tiêu chuẩn.
15 Chitiếtnghiêncứu:https://www.rand.org/content/
dam/rand/pubs/research_reports/RRA1100/RRA1108-1/
RAND_RRA1108-1.pdf
Thay đổi chưa bao giờ là dễ. Nhiều “bệnh lý”
thậm chí vốn đã tồn tại rất lâu trong hệ thống
giáo dục trước cả đại dịch. Nhưng ta luôn có thể
bắt đầu bằng việc tạo ra các chính sách trường
học nghiêm ngặt tách biệt được công việc với
nghỉ ngơi, loại bỏ việc áp dụng các công cụ hiện
đại mà không có sự hỗ trợ thích hợp, tiến hành
các cuộc khảo sát thường xuyên để đánh giá
trình trạng của giáo viên và trên hết là lắng nghe
những tâm sự nhà giáo để có thể xác định và đối
mặt với những vấn đề mới xuất hiện.
37
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Quản lý giáo dục
Số 42 - 2021
Ban Biên tập Lộn xộn
Hoàng Anh Đức
Nguyễn Linh Chi
Vũ Như | UberMath
Ngô Thị Thanh Tùng | VNIES
LISA | Cùng học
Nguyễn Minh Trang | EdLab Asia
Vũ Nguyễn Quang Duy | Cùng học
Logo | Hà Dũng Hiệp
Chế bản | Quách Anh
Liên hệ: bientap@day-hoc.org
Nội san Dạy học | Day-hoc.org
Ban Biên tập Lộn xộn
“Học để Dạy,
và Dạy để Học”