Khoa học Y-Dược /Y học dự phòng 23 65(12) 12.2023 1. Mở đầu Nhiều nghiên cứu chỉ ra nhiễm giun móc/mỏ ở người tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ của Việt Nam chiếm tỷ lệ còn cao, dù rằng cả tỷ lệ và cường độ nhiễm đang giảm dần do áp lực của thuốc điều trị và các yếu tố xã hội khác tác động. Ở người Việt Nam, giun móc gây bệnh là A. duodenale, chiếm tỷ lệ thấp hơn so với loài giun mỏ N. americanus. Gần đây, một báo cáo đã tìm thấy dấu vết của loài giun móc A. ceylanicum bằng kỹ thuật phân tử và kết luận loài này có tỷ lệ nhiễm thấp. A. ceylanicum và A. duodenale được gọi chung là giun móc và do vòng đời phát triển khá giống với loài giun mỏ N. americanus nên 3 loài giun này thường được ghép chung với nhau bằng danh từ giun móc/mỏ [1-3]. Chẩn đoán nhiễm bệnh thường dựa vào hình thể trứng và ấu trùng của 3 loài giun từ bệnh phẩm phân. Điểm khác biệt về hình thể học giữa các loài là rất nhỏ, nên việc định danh còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Vì vậy, hạn chế của chẩn đoán hình thể học khi áp dụng thực tế là chỉ dừng lại ở mức độ chẩn đoán chung chung, đó là có hay không nhiễm giun móc/mỏ. Với sự phát triển của kỹ thuật sinh học phân tử, chẩn đoán định loài đã chính xác và toàn diện. Kỹ thuật phân tử, đặc biệt là giải trình tự gen đã khắc phục được những nhược điểm tồn tại của các kỹ thuật chẩn đoán truyền thống. Ngoài ra, kỹ thuật này có khả năng xác định loài giun móc A. ceylanicum gây bệnh ở người Việt Nam có nguồn gốc từ động vật [4, 5]. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm xác định chính xác thành phần từng loài giun móc, giun mỏ gây bệnh ở người dân bị nhiễm cư ngụ tại xã Thạnh Bình, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Từ đó nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ hiện trạng nhiễm loài giun mỏ hay giun móc nào là phổ biến ở người Việt Nam. 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 2.1. Đối tượng Từ tháng 2/2022 đến 8/2022 tại xã Thạnh Bình, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, 65 người dân sống tại đây được xác định nhiễm giun thông qua phương pháp nuôi cấy mẫu phân phối hợp với kỹ thuật soi trực tiếp. Ấu trùng giun móc/mỏ được thu thập từ các mẫu phân trên được sử dụng cho nghiên cứu. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Hóa chất và môi trường cấy phân bằng phương pháp Sasa sử dụng trong nghiên cứu này được sản xuất từ Hãng Merck (Đức). Kít tách chiết DNA của Hãng ABT Biological Solution Company Limited, Việt Nam (Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam). Các hoá chất thực hiện kỹ thuật PCR của Hãng Promega, Mỹ. Trình tự các đoạn mồi của các gen được tổng hợp bởi Công ty IDT, Singapore. Địa điểm nghiên cứu là Phòng Thí nghiệm của Bộ môn Ký sinh Y học, Khoa Khoa học Cơ bản-Y học Cơ sở, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch và giải trình tự gen tại Công ty First BASE Laboratories-Axil Scientific, Singapore. Xác định hình thể ấu trùng và trứng của giun móc/mỏ bằng soi trực tiếp dưới kính hiển vi: Xét nghiệm tầm soát nhiễm giun cho người dân tình nguyện bằng phương pháp nuôi cấy Sasa và soi trực tiếp dưới kính hiển vi xác định được các trường hợp dương tính người dân nhiễm bệnh giun móc/mỏ. Tiến hành thu thập tất cả ấu trùng giun trong từng mẫu cấy bằng kỹ thuật ly tâm lắng cặn với tốc độ 3.000 vòng trong 5 phút. Phần cặn lắng sau ly tâm được soi dưới kính hiển vi kiểm tra sự hiện diện ấu trùng giai đoạn I, II Xác định thành phần loài giun móc (Ancylostoma duodenale, Ancylostoma ceylanicum) và giun mỏ Necator americanus gây bệnh cho người tại tỉnh Tây Ninh bằng kỹ thuật sinh học phân tưL Ngày nhận bài 22/3/2023; ngày chuyển phản biện 24/3/2023; ngày nhận phản biện 18/4/2023; ngày chấp nhận đăng 21/4/2023 Tóm tắt: Nhiễm giun móc/mỏ ở người Việt Nam là bệnh khá phổ biến. Tác nhân gây bệnh là Necator americanus và Ancylostoma duodenale. Một số nghiên cứu gần đây đã xác định thêm một tác nhân mới gây bệnh trên người-giun móc Ancylostoma ceylanicum, vốn thường ký sinh ở chó. Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật PCR lồng (nested PCR) và giải trình tự gen nhằm xác định sự hiện diện và thành phần của các loài giun móc A. duodenale, A. ceylanicum và giun mỏ N. americanus. Các mẫu phân người dân nghi nhiễm sống tại xã Thạnh Bình, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh được tiến hành nuôi cấy, thu thập ấu trùng và xác định sơ bộ bằng hình thái học. 65 mẫu DNA được tách chiết từ các mẫu ấu trùng dùng cho các kỹ thuật sinh học phân tử. Kết quả cho thấy, 44 mẫu đơn nhiễm N. americanus (67,7%), 11 mẫu A. ceylanicum (16,9%) và 1 mẫu A. duodenale (1,6%). Các trường hợp đồng nhiễm (13,8%) là A. ceylanicum và N. americanus. N. americanus có nguồn gốc gần với loài được công bố tại Malaysia, A. ceylanicum có nguồn gốc gần với loài đã công bố tại Thái Lan. Kết luận, tại xã Thạnh Bình, loài mới A. ceylanicum phổ biến hơn loài truyền thống A. duodenale, chiếm 95,2 so với 4,8%. Từ khóa: Ancylostoma ceylanicum, giải trình tự gen, Necator americanus, PCR lồng, phân người, phương pháp Sasa. Chỉ số phân loại: 3.3